TỔNG THUẬT: Ngày làm việc thứ nhất Hội nghị Chính phủ với các địa phương

(Chinhphu.vn) –  Ngày 28/12, Hội nghị Chính phủ với các địa phương được tổ chức với quy mô toàn quốc. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. 


Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng và các đại biểu tới dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương. - Ảnh: VGP

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổng thuật nội dung, diễn biến của Hội nghị Chính phủ với các địa phương - diễn ra trong 1,5 ngày dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Từ điểm cầu chính tại trụ sở Chính phủ, Hội nghị được kết nối tới 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo MTTQ Việt Nam, các Ban, Bộ, ngành Trung ương dự Hội nghị.

TÓM TẮT CÁC NỘI DUNG CHÍNH

Buổi sáng, sau khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc, Hội nghị nghe Phó Thủ  tướng  Thường trực Chính phủ  Trương Hòa  Bình  trình  bày Báo cáo tóm tắt về  tình hình thực hiện kế  hoạch phát triển kinh tế  -  xã hội   năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới. (chi tiết dưới đây).

Tiếp đó, Phó Thủ  tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020. (chi tiết dưới đây)

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự  thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. Theo dự thảo, xác định phương châm hành động của năm 2021 là: "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển ", Chính phủ đề ra 8 trọng tâm chỉ đạo điều hành, 12 chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ, 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực; 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu và 185 nhiệm vụ cụ thể. (chi tiết dưới đây)

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ  thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi  trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. Dự thảo Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các  Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện động bộ tất cả các mục tiêu  giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thời đặt trọng  tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo  thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác. Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh  và 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới  sáng tạo. Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 bốn nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện. (chi tiết dưới đây). 

Sau khi nghe các báo cáo nói trên và ý kiến phát biểu của lãnh đạo một số địa  phương (Hà Nội, TPHCM), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (chi tiết dưới đây).

Buổi chiều, Hội nghị nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày Báo cáo tóm tắt kết quả cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử và hoạt động của Tổ công tác năm 2020 và 5 năm 2016-2020 phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (chi tiết dưới đây). Tiếp đó, các địa phương phát biểu tham luận (chi tiết dưới đây).

Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, trong năm 2020 khó khăn chồng chất khó khăn, chúng ta vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và dấu ấn nổi bật. Mặc dù không hoàn thành được một số chỉ tiêu đề ra từ đầu năm, chủ yếu do nguyên nhân khách quan, nhưng năm 2020 vẫn được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm vừa qua với những kết quả, thành tích đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng trong việc nêu cao lòng yêu nước, tình đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Năm 2021 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Chính phủ, chính quyền các địa phương và toàn hệ thống chính trị cần chủ động, tích cực quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện thật tốt ngay từ đầu năm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ bằng những chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, phù hợp với thực tế, có tính khả thi cao, với tinh thần chung là phải chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn các năm trước và nhiệm kỳ trước.

Theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Nghị quyết về kế hoạch phát triển KTXH của Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 khoảng 6%, lạm phát khoảng 4%, cùng 10 chỉ tiêu KTXH khác. Những chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở đã tính toán, cân đối các nguồn lực gắn với bối cảnh dự báo cho năm 2021, nhất là tình hình COVID-19 trong nước và thế giới. "Mặc dù để đạt được mục tiêu này là rất thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu trong điều hành GDP 2021 thêm ít nhất 0,5 điểm phần trăm, lên mức 6,5% và đặt quyết tâm cao hơn cho các chỉ tiêu KTXH khác”, Thủ tướng nêu rõ.

Trước khi kết thúc ngày làm việc thứ nhất của Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu các địa phương không được mất cảnh giác trong công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19. Cần tiếp tục kiểm soát nghiêm ngặt biên giới, nhất là biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Từng gia đình, từng khu dân cư, từng người dân thông báo ngay khi phát hiện các trường hợp nhập cảnh trái phép. Tinh thần là báo động, đề phòng tối đa từ nay tới Tết nguyên đán. Đây là yêu cầu của Chính phủ với các địa phương. 

QUYẾT TÂM CÙNG CHÍNH PHỦ ĐẠT 'MỤC TIÊU KÉP'

Phát biểu ý kiến tại Hội nghị, lãnh đạo các địa phương đều đồng tình, thống nhất cao với nội dung các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2020 và những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.

Chủ tịch UBND TP Hà Nội phát biểu tại điểm cầu Hà Nội.

Ông Nguyễn Thanh Ngọc, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh cho biết, tỉnh đã bố trí 123 chốt trên dọc tuyến biên giới với hơn 600 cán bộ chiến sĩ thuộc các lực lượng quân sự, biên phòng, công an thường xuyên túc trực tuần tra, kiểm soát biên giới 24/24. Từ khi xảy ra dịch bệnh đến nay, tỉnh đã cách ly trên 10.000 người và hàng ngày hiện nay vẫn tiếp tục duy trì thực hiện cách ly bình quân 20-30 người nhập cảnh từ Campuchia. Hiện tại, tại các khu cách ly của tỉnh vẫn đang cách ly tập trung khoảng 500 người nhập cảnh.

Tỉnh cũng đồng thời phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế biên giới, nhập cảnh trái phép. Tính từ tháng 3/2020 đến nay, các lực lượng chức năng của tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 199 vụ với 375 đối tượng vi phạm quy chế biên giới, nhập cảnh trái phép, đã xử lý hành chính 176 vụ với 316 đối tượng; xử lý hình sự 11 vụ với 32 đối tượng và tiến hành trục xuất 41 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép… Tỉnh đã phát hiện và điều trị khỏi 7 trường hợp nhập cảnh mắc COVID-19.

Liên quan đến bệnh nhân BN1440, đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa làm rõ được chính xác tình hình di chuyển của bệnh nhân này, do đối tượng khai báo không trung thực và thiếu nhất quán. Để chủ động phòng chống dịch lây lan trong cộng đồng, tỉnh đã kích hoạt toàn bộ hệ thống phòng chống dịch ở mức cao nhất, đồng thời chỉ đạo rà soát và tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát biên giới nghiêm ngặt nhất.

Tỉnh cũng đưa ra chủ trương khen thưởng nóng bằng vật chất đối với tất cả người dân phát hiện và tố giác người nhập cảnh trái phép. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các địa phương có liên quan để tiếp tục làm rõ hành trình di chuyển của BN1440 để truy vết, ngăn vùng chính xác để phòng ngừa, không để dịch bệnh lây lan ra cộng đồng.

Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Tường Văn cho biết, năm 2020, tỉnh đã quyết tâm thúc đẩy đầu tư công với phương châm lấy đầu tư công để dẫn dắt môi trường đầu tư. Cùng với đó, tỉnh tập trung gỡ mọi khó khăn cho doanh nghiệp, vcó những dự án đầu tư thời gian cấp phép chỉ 22h sau đầy đủ khi nhà đầu tư nộp hồ sơ. Bí thư các cấp trực tiếp là trưởng ban giải phóng mặt bằng để gỡ vướng tại địa phường kịp thời, như dự án đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái, chỉ sau 15 ngày vận động, người dân đã bàn giao mặt bằng, hoàn toàn không hề có cưỡng chế hay khiếu nại.

Năm 2021, tỉnh xác định tiếp tục giữ là địa phương  an toàn và phát triển trong tình hình mới, phấn đấu tăng trưởng ít nhất 10%. 

Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận Trần Quốc Nam
nhấn mạnh, năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm đầu triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, triển khai thực hiện Quy hoạch tỉnh, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tỉnh Ninh Thuận tiếp tục bám sát và triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương mới của Chính phủ, phát huy những thành tựu quan trọng đạt được trong nhiệm kỳ qua, cùng với tiếp tục khai thác và phát huy hiệu quả các tiềm năng, lợi thế; các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ Tỉnh và những đột phá trong lĩnh vực kinh tế biển, năng lượng tái tạo, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; thực hiện phương châm hành động của năm 2021 của Chính phủ là "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển" và  phương châm hành động năm 2021 của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận là "Đoàn kết - Sáng tạo - Kỷ cương - Phát triển – Tăng tốc - Hiệu quả”.

Tỉnh sẽ đổi mới trong tư duy và hành động quyết liệt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong chỉ đạo điều hành, nêu cao tinh thần trách nhiệm, triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, trước hết là tổ chức quán triệt, triển khai kịp thời các Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV, Quy hoạch 10 năm và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 của Tỉnh.

Tạo cơ chế thu hút nguồn lực thông qua công tác quản lý và huy động tốt nhất nguồn lực đất đai, nguồn lực các thành phần kinh tế để khai thác hiệu quả các nhóm ngành đột phá, trụ cột; cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả trong công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và của cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công vụ, hội họp; đẩy nhanh xây dựng chính quyền điện tử.

Triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ trong thực hiện Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác, liên kết phát triển với các tỉnh, thành phố trong nước và nước ngoài.

Ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ cho biết, Cần Thơ thống nhất cao với nhận định, đánh giá tại các Báo cáo của Chính phủ, đặc biệt trong công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, hiệu quả trong công tác phòng chống COVID-19; hỗ trợ doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn bằng các chính sách và gói hỗ trợ; các chính sách kích cầu trong kinh tế, trong chỉ đạo điều hành giải ngân vốn xây dựng cơ bản; trong phòng chống, khắc phục thiên tai, hạn mặn ở ĐBSCL; lũ lụt, bão ở miền Trung; rét hại ở miền Bắc.

Cũng theo lãnh đạo Thành phố Cần Thơ, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, vẫn còn một số vấn đề cần nghiên cứu và có giải pháp kịp thời tháo gỡ như việc kết nối giao thông của các tỉnh trong vùng vẫn còn khó khăn; khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền còn lớn; vẫn còn bất cập, tình trạng chậm ban hành văn bản quy định chi tiết chưa được khắc phục triệt để…

Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ kiến nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện một số chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp như ưu đãi về thuế, giãn thuế..., sớm ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển Thành phố Cần Thơ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xem xét, chấp thuận phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố Cần Thơ làm cơ sở kêu gọi đầu tư, đẩy nhanh phát triển công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến... 

Theo Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng Lê Trung Chinh, năm 2020, Thành phố Đà Nẵng đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thử thách nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã quyết liệt, đồng lòng trong công tác chỉ đạo, điều hành và triển khai hiệu quả một số công việc quan trọng, trong đó, thành phố đã đã cơ bản khống chế được dịch bệnh và ngăn chặn sự lây lan trong cộng đồng; thu hút đầu tư trong nước ngoài KCN  gấp khoảng 2 lần lần về vốn so với cùng kỳ 2019…

Năm 2021, thành phố sẽ tiếp tục thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kép “vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa khôi phục, phát triển kinh tế”; kịp thời thực hiện các giải pháp phát triển nguồn thu, phấn đấu thu ngân sách đạt kết quả cao nhất; tập trung chỉ đạo xử lý các “điểm nghẽn” trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản, công tác giải tỏa, đền bù, bàn giao mặt bằng triển khai dự án, nhất là các công trình trọng điểm, động lực trên các lĩnh vực giao thông, hạ tầng khu công nghệ cao, khu công nghiệp, cấp thoát nước, môi trường, an sinh xã hội; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu hoàn thành giải ngân vốn xây dựng cơ bản năm 2021 theo kế hoạch đề ra…

Để tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố trong việc triển khai nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành trung ương xem xét, giải quyết một số kiến nghị, đề xuất của địa phương. Trong đó, Chính phủ quan tâm xem xét, sớm ban hành Nghị định quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng, Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị định số 144/2016/NĐ-CP quy định một số cơ chế đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng, Quyết định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Điều 8 Nghị quyết 119/2020/QH14 về điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị; phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đề nghị các bộ ngành đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án giao thông lớn, có sức lan tỏa, kết nối tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền Trung - Tây Nguyên... 

Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa khẳng định trong bối cảnh hết sức khó khăn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết, quyết định, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”: vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân. Với sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam trong năm 2020 đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng giúp kinh tế - xã hội đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong nước và ngoài nước, đặc biệt là những cơ chế, chính sách cho phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ, đáng chú ý, tổng số vốn đầu tư cho ĐBSCL so với cả nước tăng từ 12,2% (giai đoạn 2011-2015) lên 16,53% (giai đoạn 2016 - 2020).

Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016 - 2020), Đồng Tháp cơ bản đạt mục tiêu đã đề ra, nền kinh tế tỉnh tiếp tục có bước phát triển toàn diện, tốc độ tăng trưởng bình quân 05 năm ước đạt 6,44%/năm, thu nhập bình quân đầu người nâng lên đáng kể, đến cuối năm 2020 ước đạt trên 47 triệu đồng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn 1,21 lần. An sinh xã hội được chú trọng, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, an ninh quốc phòng được giữ vững, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển. Diện mạo đô thị và nông thôn ngày càng khang trang, văn minh, sạch đẹp, nâng cao hình ảnh địa phương, con người Đồng Tháp. Phương châm “đồng hành cùng doanh nghiệp” được khẳng định bằng những hành động thiết thực. Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), Đồng Tháp đề ra 19 chỉ tiêu phấn đấu; trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế phấn đấu đạt 7,5%/năm và năm 2021 đạt 7,0%.

Dù vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đồng Tháp vẫn kiên định mục tiêu không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng bằng mọi giá mà tập trung phát triển kinh tế để nâng cao thu nhập cho người dân, đồng hành cùng doanh nghiệp, giải quyết tốt các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, giảm nghèo, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục… từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Do đó, tỉnh Đồng Tháp rất mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ sát sao của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung ương để giúp tỉnh thực hiện mục tiêu này.

Theo đại diện tỉnh Kon Tum, dưới sự lãnh đạo, điều hành linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đại dịch COVID-19 đã được ngăn chặn và kiểm soát kịp thời; công tác ứng phó với nắng nóng, hạn hán và xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long, Trung Bộ, Tây Nguyên và tìm kiếm, cứu nạn, ứng phó, khắc phục hậu quả bão, mưa lũ tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên được thực hiện khẩn trương, kịp thời đã giúp Nhân dân sớm ổn định cuộc sống sau thiên tai.

Để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2021 cũng như giai đoạn đến năm 2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra, Tỉnh Kon Tum đề xuất, kiến nghị một số cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo động lực thúc đẩy phát triển tỉnh Kon Tum nói riêng và liên vùng Tây Nguyên – Miền Trung nói chung trong thời gian tới.

Với tiềm năng, lợi thế và xu hướng phát triển của ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, tỉnh xác định nông nghiệp công nghệ cao gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ là 01 trong 3 lĩnh vực đột phát phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới; đồng thời, đặt mục tiêu đến năm 2025 phát triển thêm 15.000 ha rừng, nâng độ che phủ rừng đạt tối thiểu 64%.

Sâm Ngọc Linh và dược liệu nói chung là tiềm năng lớn của quốc gia, tuy nhiên việc mở rộng diện tích đang gặp nhiều khó khăn do vướng quy định, tỉnh đề nghị sớm có giải pháp tháo gỡ cho các địa phương thực hiện thí điểm phát triển Sâm Ngọc Linh và dược liệu khác dưới tán rừng đặc dụng.

Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng Nguyễn Văn Tùng cho biết, trong năm 2020, TP. Hải Phòng đã thực hiện thắng lợi nhiệm kép vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo đời sống nhân dân.

Thành phố đã kiểm soát, khống chế được dịch bệnh, không có ca mắc COVID-19 ngoài cộng đồng. Đồng thời, tăng trưởng kinh tế thành phố vẫn duy trì ở mức cao . Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu như chỉ số sản xuất công nghiệp, thu nội địa, kim ngạch xuất khẩu, sản lượng hàng qua cảng, tổng vốn đầu tư phát triển tiếp tục có sự tăng trưởng so với cùng kỳ. Kịp thời triển khai gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại tiếp tục được bảo đảm… Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP tăng 11,22% so với năm 2019, bình quân 5  năm tăng gần 14%/năm, vượt kế hoạch đề ra; tổng thu ngân sách năm 2020 đạt gần 86.000 tỷ đồng,  tỷ lệ hộ nghèo còn 0,22%...

Để giúp cho Hải Phòng hoàn thành được nhiệm vụ, phát huy mạnh mẽ vai trò là cực tăng trưởng, là động lực phát triển kinh tế xã hội cho cả vùng và cả nước như Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị đã định hướng, thành phố Hải Phòng đề nghị Chính phủ phân cấp cho các địa phương một số nội dung.

Về triển khai thực hiện Nghị quyết số 45 của Bộ Chính trị về xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ đã ban hành chương trình hành động số 108, đề nghị Chính phủ điều chỉnh Nghị quyết 89 về quy định một số chính sách tài chính, ngân sách đặc thù Hải Phòng để thành phố phát huy tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội; đề nghị Bộ Xây dựng và Chính phủ sớm phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050…

Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế Phan Ngọc Thọ cho rằng, để đạt được mục tiêu đề ra, ngoại trừ yếu tố kiểm soát tốt dịch bệnh, Chính phủ cũng đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể, tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, khai thác dư địa của các động lực tăng trưởng từng ngành, địa phương.

“Bài học về sức mạnh kỷ luật, sự đồng thuận, chung sức đồng lòng trong thời điểm khó khăn nhất của đất nước là bài học quý báu cho chúng ta trong quá trình phục hồi và phát triển đất nước sau đại dịch”, ông Phan Ngọc Thọ phát biểu.

Chưa gượng dậy sau đại dịch COVID lần 2, các tỉnh miền Trung nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng phải đương đầu, gánh chịu tác động nặng nề do bão, lũ, lụt trong tháng 9, tháng 10. Trong những thời điểm khó khăn đấy, nhân dân tỉnh nhà luôn nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ, động viên kịp thời của lãnh đạo Đảng, Chính phủ, sự vào cuộc đầy trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, của hệ thống chính trị, những tấm lòng nhân ái chia sẻ vật chất, tinh thần của bà con cả nước đã góp phần hạn chế, khắc phục hậu quả bão, lũ gây ra, làm vơi đi những mất mát, đau thương của người miền Trung gánh chịu trong bão lụt.

Năm 2021 là năm khởi động đầu nhiệm kỳ với nhiều khó khăn, cần tập trung nguồn lực cho đầu tư khôi phục và phát triển sản xuất, phát triển kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh, đòi hỏi các cấp, các ngành phải năng động, sáng tạo và sẵn sàng với "trạng thái mới" trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện để phấn đấu đạt hiệu quả cao nhất trong chỉ đạo, điều hành.

Để đạt mục tiêu đề ra trong 2021 của quốc gia cũng như của địa phương, Thừa Thiên Huế cho rằng, thời điểm hiện nay phục hồi, đón đầu cơ hội nền kinh tế là nhiệm vụ cấp bách của đất nước. Đây là cơ hội để chúng ta đánh giá sự thích nghi, chủ động của nền kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi và quy mô toàn cầu.

Ông Phan Ngọc Thọ đề nghị cần tiếp tục có lộ trình chuyển đổi, hình thành chuỗi sản xuất tin cậy, đa dạng, chủ động, tạo nền tảng cho phát triển nền kinh tế, có năng lực phản ứng nhanh, linh hoạt, thích ứng với biến động của nền kinh tế. Đây là thời điểm cho Việt Nam tận dụng từ việc điều chỉnh, sắp xếp lại cục diện kinh tế, thương mại toàn cầu do dịch bệnh gây nên.

Tiếp tục thực hiện cải cách thể chế, kịp thời giải quyết, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.  Tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong các lĩnh vực kinh tế, tập trung chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhằm phát huy hiệu quả vận hành Chính phủ điện tử, góp phần quan trọng trong thực hiện cải cách hành chính, hiện thực hóa lộ trình giảm giấy tờ, giảm thời gian, giảm chi phí trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính…

Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh cho biết thành phố đã triển khai một cách nghiêm túc và chủ động, bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, về cơ bản Thành phố đã đạt được mục tiêu tổng quát, mục tiêu kép với những kết quả quan trọng, toàn diện trong đó nhiều chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức.

Một số dấu ấn Thành phố như: Đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng Hà Nội, được đánh giá là thực chất, trọn vẹn và tạo nhiều dấu ấn tốt đẹp; hiệu quả mục tiêu kép, TP đã kiểm soát, đẩy lùi được dịch bệnh trong cả 3 đợt; có giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, nhiều hoạt động kết nối với các địa phương cung cầu hàng hóa, tổng sản phẩm trên địa bàn ước tăng 3,98%, quy mô nền kinh tế trên 44 tỷ USD, thu ngân sách ước thực hiện khoảng 280 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019…

Bên cạnh đó, Hà Nội tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của Thủ đô, thúc đẩy nhiều công trình hạ tầng giao thông, xử lý nhiều vấn đề dân sinh bức xúc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...

Năm 2021, thành phố Hà Nội thực hiện năm chủ đề: “Kỷ cương, trách nhiệm, hành động, sáng tạo, phát triển” và xây dựng 23 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội, trong đó, phấn đấu GRDP tăng khoảng 7,5%. Ngay từ đầu tháng 1/2021, thành phố Hà Nội sẽ ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ.

Ban Thường vụ Thành ủy Hà nội đã có 3 nội dung báo cáo về Bộ Chính trị: xung quanh định hướng điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Hà Nội dự kiến tháng 12/2021 để báo cáo Bộ Chính trị; sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Thủ đô dự kiến tháng 12/2021; báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11 về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô giai đoạn 10 năm qua để chuẩn bị cho 10 năm tiếp theo.

Hà Nội đề nghị Chính phủ báo cáo với Quốc hội về việc triển khai kết hoạch đầu tư công trung hạn, theo Điều 89, Luật Đầu tư công, hiện nay có bất cập là dự án cho 2 kỳ kế hoạch đầu tư liên tiếp phải bảo đảm tổng số giá trị, tổng mức đầu tư của chương trình dự án được thực hiện kế hoạch đầu tư công của giai đoạn sau không vượt quá 20% giai đoạn trước; về Quy hoạch Hà Nội 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn 2045 liên quan đến bố trí vốn, thẩm định dự toán; kiến nghị Bộ Nội vụ trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn Nghị quyết 97 của Quốc hội thí điểm mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn TP.Hà Nội...

Ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch UBND TPHCM cho biết, Thành phố xác định chủ đề năm 2021 là: “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”, với mục tiêu tổng quát là tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, đó là tập trung kiểm soát tốt lây nhiễm COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Thành phố thông minh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng chính quyền đô thị; chú trọng phát triển văn hóa, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình hạnh phúc; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Để thực hiện tốt phương châm hành động năm 2021 Chính phủ đề ra là “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển”, Thành phố xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 với 20 chỉ tiêu và 9 nội dung trọng tâm là:

(1) Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả chủ đề năm 2021 “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”. Triển khai Kế hoạch thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM theo Nghị quyết số 131 và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ đảm bảo đúng tiến độ. Triển khai sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập Thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM, trong đó nghiên cứu các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển Thành phố Thủ Đức trình các cơ quan Trung ương thông qua. Dự kiến ngày 31/12/2020, TP sẽ tổ chức công bố Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Thành phố Thủ Đức.

(2) Tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, tập trung kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực.

 (3) Đảm bảo tiến độ thực hiện 51 chương trình nội dung, đề án thuộc 3 chương trình đột phá về đổi mới phát triển hạ tầng, phát triển nhân lực và văn hóa, chương trình trọng điểm về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo và phát triển sản phẩm chủ lực của TP.

(4) Đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số tận dụng thời cơ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

 (5) Đẩy mạnh thiết kế đô thị phục vụ quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.

 (6) Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.

 (7) Tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội.

(8) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế.

(9) Giữ vững ổn định an ninh chính trị, quốc phòng an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đảm bảo tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị ....

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2021, tại Hội nghị hôm nay, Thành phố kiến nghị Chính phủ quan tâm, sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố theo Nghị quyết số 131 của Quốc hội trước ngày 1/1/2021. Hiện Thành phố rất chủ động và khẩn trương phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hoàn chỉnh dự thảo để trình Chính phủ.

Để tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 54 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương sớm có hướng dẫn về Phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa để Thành phố kịp triển khai công tác cổ phần hóa theo kế hoạch đề ra và đẩy nhanh tiến độ kê khai, phê duyệt phương án và thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước của các Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước trên địa bàn TP để TP có thêm nguồn lực đầu tư phát triển.

NĂM 2020 THÀNH CÔNG NHẤT TRONG 5 NĂM QUA

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng lần thứ 4 liên tiếp tham dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Hội nghị lần này tổng kết năm 2020 và bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

Hội nghị diễn ra vào cuối năm 2020, năm cận kề Đại hội XIII của Đảng, năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm và chiến lược phát triển 10 năm. Các đồng chí đã chuẩn bị công phu, chu đáo, nghiêm túc, Chính phủ báo cáo toàn diện, đầy đủ, rõ ràng, phát biểu của các địa phương cụ thể, phong phú, sinh động.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước phát biểu thêm một số vấn đề có tính chất gợi mở, tổng quát để các đồng chí suy nghĩ, trao đổi thêm.

Năm 2020 có nhiều khó khăn, thách thức, bất ngờ lớn, tác động nhiều mặt tới nước ta và toàn thế giới. Kinh tế toàn cầu suy thoái nặng nề, tăng trưởng âm 4%. Trong nước, khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng trong bối cảnh đặc biệt đó, chúng ta vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và nhiều dấu ấn nổi bật.

Ảnh: VGP

Cụ thể, ứng phó nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh. Củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. “Trong những thời khắc đầy khó khăn thách thức, tính ưu việt của chế độ, các truyền thống tốt đẹp, ý chí của dân tộc ta được phát huy và đưa lên tầm cao mới. Các giải pháp đưa ra phù hợp tình hình và thực lực đất nước, chấp nhận hi sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân, chống dịch như chống giặc…

Việt Nam tuy còn khó khăn về kinh tế nhưng là một hình mẫu về phòng chống dịch bệnh, với chi phí thấp nhất, có trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế. Đại sứ EU đã nói, ở lại Việt Nam thời đại dịch là một may mắn xa xỉ.

Cùng với đó, nỗ lực phục hồi duy trì tăng trưởng cao nhất có thể, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới, với nhiều chủ trương chính sách ban hành kịp thời và thực hiện tốt.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc tới hàng loạt kết quả nổi bật như tăng trưởng GDP, xuất khẩu, nợ công, giải ngân vốn đầu tư công… Cùng với đó là những kết quả toàn diện về bảo đảm an sinh xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh. Trong bối cảnh gồng mình chống thiên tai dịch bệnh, chúng ta vẫn tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp và đang chuẩn bị tổ chức Đại hội XIII theo đúng kế hoạch đề ra, chặt chẽ, kỹ lưỡng, bài bản, đúng quy định, nhiều đổi mới.

“Dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương năm ngoái, tôi có chúc rằng các đồng chí phấn đấu làm sao để năm 2020 phải hơn 2019. Đến nay, dù còn những hạn chế, có chỉ tiêu chưa làm được, nhưng như trong báo cáo của Chính phủ, năm 2020 đã thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. - Ảnh: VGP

Chỉ đạo các giải pháp, nhiệm vụ lớn trong năm 2021 và thời gian tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn vì mục tiêu đặt ra trong năm 2021 là rất cao trong bối cảnh chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới thời gian tới sẽ diễn biến rất phức tạp, khó đoán định, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về nhiều mặt dưới tác động của đại dịch COVID-19.

Chúc năm 2021 phải đạt nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm 2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc lại yêu cầu tuyệt nhiên không được say sưa, tự mãn, vì trước mắt khó khăn thách thức rất nhiều, công việc nặng nề đang chờ đón. Đặc biệt, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lưu ý đội ngũ cán bộ cả nước, rường cột của nước nhà, công bộ của dân, phải luôn tự soi tự sửa để không mắc vào những cám dỗ vật chất, để không xảy ra những điều không ai mong muốn.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng, sau Hội nghị này, với khí thế mới, niềm tin mới, Chính phủ, các địa phương tiếp tục đoàn kết, năng động sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ năm 2021 và cả nhiệm kỳ, góp phần xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong đợi.

Với tinh thần chung là phải chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn các năm trước và nhiệm kỳ trước, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên 4 nhóm phương hướng, nhiệm vụ lớn.

Thứ nhất, tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn với những kết quả, thành tích đã đạt được vì mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra cho năm 2021 và nhiệm kỳ tới là rất cao, trong khi đất nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, ở mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Sản xuất kinh doanh bị suy giảm; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí phải đóng cửa, tạm dừng hoạt động. Việc làm, thu nhập của người lao động bị ảnh hưởng lớn. Việc bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Hệ thống tài chính - ngân hàng; công tác bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội đứng trước nhiều rủi ro, thách thức. Việc triển khai thực hiện một số chính sách, biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ sản xuất kinh doanh chưa thực sự hiệu quả, chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra…

Thứ hai, cần quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội XIII, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và hiệu quả hơn công cuộc đổi mới. Xác định rõ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta trong giai đoạn tới là đẩy mạnh đổi mới, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam; thu hút, trọng dụng nhân tài; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.

Thứ ba là xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt kế hoạch hằng năm, cũng như Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 gắn với Chiến lược 10 năm về phát triển kinh tế - xã hội theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong quá trình này, cần tập trung ưu tiên nguồn lực để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ trọng tâm là: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các vùng và khu vực; phát triển bền vững kinh tế biển, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững.

Đồng thời, luôn kiên định với mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Luôn phải có các chính sách, biện pháp phù hợp để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy cao độ giá trị văn hóa, sức mạnh con người. Chú trọng đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, tạo sự chuyển biến tích cực hơn nữa trong việc quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai có hiệu quả các chính sách, biện pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thường xuyên quan tâm thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ tư là tập trung ưu tiên đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến về chất trong việc tổ chức thực hiện ba đột phá chiến lược, bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới theo hướng: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt, trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục - đào tạo, gắn với cơ chế phát hiện, tuyển dụng, sử dụng đội ngũ nhân tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế số, xã hội số.

Phát biểu đáp từ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ cảm ơn những chỉ đạo rất sâu sắc, toàn diện của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Những nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là sự động viên, khích lệ to lớn và là định hướng xuyên suốt trong hoạt động của Chính phủ và chính quyền các cấp trong thời gian tới. Chính phủ, từng thành viên Chính phủ sẽ lĩnh hội, quán triệt và triển khai các nội dung chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực, đạt được những kết quả to lớn hơn trong thời gian tới. 

Ảnh: VGP

VIỆT NAM CÓ THỂ ĐI ĐẦU TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Như đã thành thông lệ quý báu, hôm nay chúng ta vui mừng đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đến tham dự Hội nghị và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng. Chính phủ cũng vui mừng đón đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các Bộ ngành trung ương, địa phương cùng tham dự Hội nghị quan trọng hôm nay.

Nhớ lại 5 năm trước, khi Chính phủ bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016 – 2020, nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Hôm nay, nhìn lại cả chặng đường đã đi, tôi vui mừng được chia sẻ rằng đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, mọi người dân được hưởng thành quả phát triển, biên cương, bờ cõi được giữ vững, niềm tin được củng cố, niềm tự hào với bè bạn năm châu được nhân lên. Trong nhiệm kỳ qua, chúng ta đã đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực, nhất là nước chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, AIPA 41, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng, đặc biệt là Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều.

Trong suốt hành trình 5 năm, Chính phủ đã nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, những góp ý thẳng thắn, cụ thể của các đại biểu Quốc hội, sự phối hợp tích cực, hiệu quả của các cơ quan tư pháp; sự ủng hộ của MTTQ các cấp trong huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

Riêng năm 2020, dưới tác động của COVID-19, trong khi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới rơi vào suy thoái, Việt Nam chúng ta là quốc gia hiếm hoi duy trì được tăng trưởng dương. Dịch bệnh trong nước được kiểm soát vững chắc, giảm thiểu số người chết và những thiệt hại về kinh tế; an sinh xã hội được bảo đảm, văn hoá, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thông tin truyền thông đạt nhiều kết quả ấn tượng, công tác tuyên giáo, dân vận chính quyền phát huy được nhiều ảnh hưởng và sức lan tỏa trong cán bộ-công chức và nhân dân. Đến thời điểm này có thể khẳng định chúng ta đã đạt được "mục tiêu kép" trong phòng chống dịch COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Nhìn rộng hơn, chúng ta không chỉ thành công về phát triển kinh tế mà công tác xây dựng Đảng, phòng, chống tham nhũng cũng được Đảng, Nhà nước đẩy mạnh, qua đó thiết lập lại kỷ cương phép nước, đẩy lùi tiêu cực, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ các cấp, từng bước lành mạnh hóa môi trường kinh doanh và môi trường xã hội.

Như câu ngạn ngữ, thành công không chỉ được đo bằng những gì đạt được mà còn bởi những trở ngại đã vượt qua. Với những thành quả đặc biệt đó, năm 2020 có thể được xem là năm thành công nhất trong 5 năm nhiệm kỳ của chúng ta về ý chí và tinh thần vượt khó vươn lên. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tương lai đất nước, cơ đồ dân tộc không ngừng được củng cố và vun đắp. Nó cho thấy, những lúc khó khăn nhất, gai góc nhất là những dịp bản sắc của tinh thần dân tộc ta lại trỗi dây, đó chính là sự đoàn kết, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay."

Sự kiện hôm nay không chỉ tổng kết năm 2020 mà còn cả 4 năm trước đó của nhiệm kỳ. Phân tích rõ hơn một số vấn đề đặt ra của đất nước ta trong những năm tới một cách cô đọng nhất, Thủ tướng nêu rõ:

Trong 5 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã cùng nhau tạo ra hơn 1.200 tỷ đô-la giá trị GDP. Riêng năm 2020, dù trong muôn vàn khó khăn bởi COVID-19 và sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ Đại suy thoái 1929-1932, kinh tế nước ta vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương xấp xỉ gần 3%. Theo tính toán của IMF, quy mô kinh tế nước ta giờ đây đã đạt hơn 340 tỷ đô-la – đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, tương đương hoặc vượt qua một số nền kinh tế có trình độ phát triển cao trong khu vực, kể cả một số con hổ của Đông Á. Tạp chí Nhà Kinh tế của Anh xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của WB, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.

Chúng ta vui mừng nhận thấy tăng trưởng nay đã bao trùm hơn rất nhiều, không chỉ ở đô thị mà còn ở nông thôn, không chỉ ở đồng bằng mà còn miền núi, biên giới, hải đảo. Chúng ta cũng chứng kiến những con số tăng trưởng ấn tượng của nhiều địa phương mới nổi bên cạnh các địa phương truyền thống. Có thể nói, chính sự tăng trưởng bứt phá của các địa phương mới nổi là nhân tố truyền cảm hứng cho nhiều địa phương khác tự tin vượt lên chính mình.

Ở góc nhìn khác, tăng trưởng kinh tế nay đã không còn phụ thuộc nhiều vào riêng một thành phần kinh tế nào, dù là DNNN hay FDI, mà vai trò của kinh tế tư nhân đang từng bước được khẳng định là một động lực quan trọng của đất nước như tinh thần Nghị quyết 10 của Trung ương Khóa 12. Chúng ta cũng không tập trung vào một vài ngành kinh tế nào mà nay công nghiệp, dịch vụ, và đặc biệt là nông nghiệp đều cùng giữ vai trò và đóng góp quan trọng. Trong ngoại thương, nhờ nhiều hiệp định FTA, Việt Nam đã không quá tập trung vào một vài thị trường truyền thống; đồng thời chú trọng hơn nữa thị trường trong nước. Thu NSNN đạt kết quả ấn tượng, cơ bản đạt mục tiêu đề ra; chi NSNN chặt chẽ hơn, tiết kiệm, hiệu quả hơn.

Tăng trưởng GDP có nhiều ý nghĩa vì phía sau đó là những nỗ lực bền bỉ của những ngày lao động cần cù, vất vả của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên. GDP không tính đến tuổi thọ và sức khỏe của người dân, không đo lường được sự tận tụy, cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức, không đong đếm được tình người trong bão lũ ở miền Trung và đại dịch COVID-19 vừa qua, và không thể phản ánh đầy đủ được bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Đó là lý do chúng ta bổ sung nhiều tiêu chí khác, nhất là việc làm và thu nhập. Trong 5 năm qua, nền kinh tế nước ta đã tạo ra được hơn 8 triệu việc làm mới cho người dân, trong đó bao gồm những người đến tuổi lao động và cả những người bị mất việc làm trước đó. Nhờ có việc làm tốt hơn, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, kinh tế phát triển, đời sống xã hội tốt đẹp hơn. Hiện thu nhập bình quân mỗi lao động đạt gần 5.000 đô-la một năm. Tính cả nhiệm kỳ qua, thu nhập bình quân của người dân chúng ta đã tăng gần 145%. Đánh giá theo tiêu chuẩn của WB tính theo sức mua tương đương, thu nhập trung bình của người dân VN tương đương gần 9.000 đô-la Mỹ.

Thu nhập là một tiêu chí quan trọng nhưng chúng ta chứng kiến, có những quốc gia có thu nhập tăng nhưng tuổi thọ của người dân không tăng, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hay tỷ lệ học vấn của người dân không được cải thiện. Việt Nam không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt được nhiều tiến bộ nhanh chóng về xã hội. Tuổi thọ trung bình của người dân chúng ta nay đã tăng lên gần 74 tuổi. Theo UNICEF, chúng ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao tỷ lệ sống sót của trẻ dưới 5 tuổi. Trong Báo cáo gần đây của UNDP, Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam đã được xếp vào nhóm phát triển cao của thế giới. Kinh tế phát triển nhanh nhưng tình trạng bất bình đẳng được kiểm soát tốt, cả bình đẳng về thu nhập lẫn bình đẳng giới. Việt Nam cũng đạt được nhiều thành quả vô cùng ý nghĩa về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn dưới 3% so với 10% của 5 năm trước. Cách đây hơn 1 năm, tôi rất cảm động khi đọc tin thấy cụ bà Đỗ Thị Mơ ở Thanh Hóa, dù đã 83 tuổi nhưng vẫn đạp xe lên xã xin trả lại sổ hộ nghèo. Tinh thần của Cụ là tấm gương có sức lan tỏa trong cả nước.

Về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất quan điểm "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển", xem "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Mỗi năm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục không thấp hơn 20% tổng chi ngân sách, tương đương trên 5,7% GDP, thuộc nhóm cao trên thế giới. Chất lượng giáo dục nhìn chung được nâng lên. Việt Nam tiếp tục giữ vững truyền thống xưa nay là giành nhiều thành tích quan trọng ở các kỳ thi khu vực và quốc tế.

Bên cạnh giáo dục, Đảng và Nhà nước ta cũng đã đầu tư và thực hiện ngày một tốt hơn các chính sách chăm sóc y tế cho nhân dân. Nếu không nhờ sự quan tâm và đầu tư đó, chúng ta rất khó đạt được những thành quả trong phòng chống dịch vừa qua. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia có mô hình chống dịch hiệu quả hàng đầu trên thế giới. Thành quả chống COVID-19 có được là ý chí của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân và đã phần nào cho thấy tính hiệu quả của hệ thống y tế công cộng mà Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư. Cùng với đó, chính sách bảo hiểm y tế đang đóng vai trò rất lớn trong mạng lưới an sinh xã hội. Nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không may mắc bệnh hiểm nghèo, rất cần sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế.

Chúng ta cũng vui mừng nhìn thấy sự thay đổi nhanh chóng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân trên mọi miền tổ quốc. Đô thị hóa đang lan tỏa mạnh mẽ. Chương trình nông thôn mới đã đem lại nhiều thay đổi rất tích cực.Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đã ưu tiên nguồn lực ngân sách đáng kể để đầu tư kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế và các thiết chế văn hóa, v.v… vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện chính sách giảm nghèo, vừa phục vụ đời sống người dân. Đảng và Nhà nước luôn ghi nhận những đóng góp quan trọng của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL đã được triển khai trên cả giác độ tái cơ cấu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu.  Song song, chúng ta đã và đang ngày càng quan tâm, đề cao ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của dân tộc ta.

Trong các chương trình nghị sự, Chính phủ đặt quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp vào vị trí trung tâm. Chính phủ đã đưa nghị quyết về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia lên Nghị quyết số 02, chỉ sau Nghị quyết 01 về nhiệm vụ phát triển KT-XH trong những năm qua.

Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; an ninh lương thực được bảo đảm; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ đang trở thành xu hướng; xuất khẩu nông sản đạt hơn 41 tỷ USD. Công nghiệp chuyển biến theo chiều sâu với tỉ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 23% lên 50% trong cùng kỳ. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học, công nghệ cao như viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử phát triển khá nhanh.

Bên cạnh kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chúng ta cũng vui mừng chứng kiến khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam ngày càng lớn mạnh trở thành mũi nhọn tại một số ngành/lĩnh vực kinh tế quan trọng. Doanh nghiệp của VN đang dần chiếm lĩnh một số vị trí then chốt của nền kinh tế. Chúng ta cũng vui mừng khi ngày càng nhiều doanh nghiệp VN chuyển hướng đầu tư vào công nghệ, sáng tạo, nắm bắt và làm chủ các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều sản phẩm hàng hóa do doanh nghiệp VN sản xuất hay thương hiệu Việt Nam, Made in Việt Nam đã vươn ra thị trường toàn cầu.

Mới đây, một hãng định giá thương hiệu nổi tiếng của Anh đã định giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam là 319 tỷ USD, tăng 29% so với năm ngoái, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 33 (tăng 9 bậc) trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới. Đây không phải là kết quả mới mà liên tục 4 năm qua, thứ hạng giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam đã tăng một cách vững chắc nhờ những nỗ lực của Việt Nam về cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh COVID-19, Việt Nam nổi lên là "thiên đường" sản xuất mới tại Đông Nam Á với những dự báo tích cực về tăng trưởng GDP.

Hệ thống tài chính của chúng ta đã lâu rồi mới tạo lập lại sự ổn định hiếm có như những năm qua. Thị trường chứng khoán tăng trưởng đạt điểm kỷ lục lịch sử với 1.200 điểm vào tháng 4/2018. Quy mô vốn hóa thị trường đạt trên 100% GDP, trong đó cổ phiếu đạt gần 70% GDP, giúp bổ sung thêm khoảng trên 120 tỷ đô-la vào tài sản quốc gia so với cách đây 5 năm. Giá trị tài sản của các ngân hàng tiếp tục tăng lên; năng lực tài chính, độ vững mạnh và an toàn hệ thống tiếp tục được củng cố, tỷ lệ nợ xấu thấp. Việc điều hành chính sách tiền tệ đạt được nhiều tiến bộ quan trọng, đặc biệt là các công cụ chính sách được sử dụng linh hoạt, thận trọng, bám sát các tín hiệu của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Chính sách tỷ giá phản ánh các quan hệ cung của thị trường hối đoái, sức mua của tiền đồng so với các đồng tiền quốc tế được duy trì, giúp đạt được mục tiêu ổn định vĩ mô.

Cán cân thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, trong đó đặc biệt là cán cân thương mại hàng hóa liên tục thặng dư trong suốt 5 năm qua nhờ những lợi thế cạnh tranh có tính cơ cấu, và nhờ sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều hành tỷ giá của Việt Nam không nhằm mục tiêu duy trì lợi thế xuất khẩu mà phản ánh khách quan các quan hệ của thị trường.

Cùng với cân đối bên ngoài tốt, cân đối bên trong cũng được cải thiện tích cực. Tỷ lệ bội chi ngân sách và nợ công đều được kéo giảm xuống mức an toàn hơn, nhờ đó không gian tài khóa và dư địa chính sách của chúng ta được nâng lên đáng kể. Chính dư địa này đã trở thành bệ đỡ, giúp nền kinh tế vượt qua muôn vàn khó khăn trong giai đoạn dịch bệnh do COVID-19 vừa qua. Ở góc độ người dân và doanh nghiệp, cũng như toàn xã hội nhờ có sự tích lũy sau những năm tăng trưởng tốt và việc làm ổn định mà hoạt động được duy trì, phúc lợi được giữ vững. Hệ số tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên ở mức triển vọng ổn định, trong khi rất nhiều quốc gia trên thế giới bị hạ bậc hoặc hạ triển vọng do dịch bệnh COVID-19 và những vấn đề về cơ cấu.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: VGP

Bất luận trong hoàn cảnh nào, Chính phủ đều nhận diện những hạn chế, khó khăn mà nền kinh tế nước ta đang gặp phải, chẳng hạn tăng trưởng kinh tế còn chưa tương xứng với tiềm năng và chưa thực sự bền vững. Công ăn việc làm của một bộ phận người dân chưa được đảm bảo, nhất là ở vùng nông thôn, khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức. Mặt bằng thu nhập vẫn còn thấp và thiếu ổn định, nhất là dưới tác động của COVID-19. Nhiều địa phương đang tăng trưởng nhanh nhưng không phải địa phương nào cũng tìm được động lực tăng trưởng tương xứng với tiềm năng, nhất là ở các tỉnh vùng sâu, miền núi, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn chung vẫn còn khó khăn, sức cạnh tranh thấp. Các vấn đề cơ cấu của nền kinh tế, những nút thắt về cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, cải cách thể chế pháp luật, môi trường kinh doanh… vẫn còn nhiều trở ngại, mỗi năm có hàng vạn doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.

Trong khi đó, chất lượng giáo dục, y tế và các chính sách xã hội của chúng ta nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Đô thị hóa phát triển nhưng chúng ta vẫn còn những khu nhà lụp xụp, quá tải. Những vấn đề sát sườn với đời sống người dân như tai nạn giao thông, an ninh trật tự, tội phạm xã hội, ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi, nhiều giá trị xã hội bị suy giảm; nhất là tình trạng suy nghĩ lệch lạc, mất định hướng giá trị, sống thiếu hoài bão, thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ. Ô nhiễm môi trường và tác động do biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện rõ.

Mọi người đều xót xa khi mỗi năm có nhiều trẻ em bị bạo lực, xâm  hại và đuối nước. Chúng ta cũng còn nhiều cụ già neo đơn, không người chăm sóc vv…

Nhìn lại những đánh giá cách đây 5 năm, không ai nghĩ rằng kinh tế thế giới lại rơi vào suy thoái nghiêm trọng như hiện nay. Thậm chí cách đây chỉ 1 năm, từ Covid chưa hề xuất hiện trong từ điển của con người, tuy nhiên cách mạng 4.0, chuyển đổi số, khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo… cũng là những từ khóa thường xuất hiện trong những năm qua. Nhiều người cũng đã nói nhiều đến những thay đổi không chỉ về mặt công nghệ, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mà còn các mô thức kinh doanh mới, những loại hình việc làm mới, và cả những thay đổi trong cấu trúc xã hội, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, vấn đề nhân khẩu học, già hóa dân số, và cả biến đổi khí hậu cực đoan, v.v…

Trong số những thay đổi đó, có những thay đổi tích cực, mang lại nhiều đột phá để giải phóng sức lao động của con người, làm cho cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn, chẳng hạn như các đột phá trong y học ghép tạng giúp con người có thể sống khỏe mạnh và thọ hơn. Hay đơn cử là việc các nhà khoa học hiện nay chỉ mất gần 1 năm để tìm ra Vaccine COVID-19 trong khi thường cần khoảng 10 năm. Việt Nam chúng ta cũng bắt đầu tiến hành những thử nghiệm lâm sàng về Vaccine COVID-19 trên người, qua đó cho thấy nền y học của nước nhà không thua kém nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Tuy nhiên cũng có những thay đổi làm phát sinh nhiều rủi ro và làm trầm trọng hơn vấn đề bất bình đẳng, nguy cơ mất việc làm và sự suy giảm thu nhập. Các doanh nghiệp cũng sẽ dễ dàng dịch chuyển đến bất kỳ nơi đâu trên thế giới.

Chúng ta cũng nhìn thấy nhiều thách thức của biến đổi khí hậu mà Việt Nam là mộttrong số 05 nước bị ảnh hưởng nặng nề. Hiện tượng "lũ chồng lũ, bão chồng bão" hiếm có ở miền Trung mới đây là một ví dụ; hoặc tình trạng hạn hán, sa mạc hóa ở Nam Trung Bộ; tình trạng xâm nhập mặn ở ĐBSCL… Tuy nhiên, dù chúng ta có lo ngại hay lạc quan, muốn hay không muốn thì những thay đổi ấy vẫn đang diễn ra. Trách nhiệm của Nhà nước là phải kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tối đa những thiệt hại cho người dân và nền kinh tế. Đồng thời trong khó khăn, chúng ta cũng nhìn thấy cơ hội mang lại từ làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số  là rất lớn, giúp mở ra không gian mới cho sự phát triển.

Các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: VGP

Mọi người sẽ sớm nhận ra rằng, từ nửa sau thế kỷ 21 này, thế giới có thể sẽ không còn nhớ đến những quốc gia dẫn đầu về thu nhập nhưng sẽ luôn nhớ đến những quốc gia, những tổ chức, những cá nhân tiên phong trong một số thành tựu đem lại cuộc sống tốt hơn cho con người. Việt Nam chưa thể đứng ở nhóm đầu các quốc gia về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số ngành và lĩnh vực mới khai phá. Chúng ta cần sớm nhận ra cơ hội trong khó khănNghị quyết 52NQ/TW của Bộ Chính trị cho thấy Đảng ta đã sớm nhận ra cơ hội này và đã chủ động đề ra chủ trương và chính sách lớn. Cả hệ thống chính trị và người dân chúng ta phải có trách nhiệm và quyết tâm đưa Nghị quyết đó vào thực tiễn, biến cơ hội thành lợi thế, biến lợi thế thành nguồn lực, chuyển nguồn lực thành kết quả tăng trưởng bền vững cho đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.

“Tôi tin những đặc tính của dân tộc ta như tinh thần đoàn kết, ý chí, quyết tâm, tính cần cù, lạc quan và thích ứng nhanh sẽ làm nên thành công. Bởi cha ông ta, cũng với tinh thần đó, đã đứng vững trước mọi thách thức của thiên tai cũng như đẩy lùi mọi cuộc xâm lược để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc ta. Cũng với tinh thần đó, các nhà lãnh đạo đi trước đã giành được nhiều thành tựu vô cùng ý nghĩa trong gần 35 năm đổi mới. Chính tinh thần ấy đã giúp chúng ta được sự tiến bộ không ngừng trong 5 năm qua. Chính nhờ tinh thần ấy, tăng trưởng kinh tế của chúng ta luôn thuộc nhóm dẫn đầu thế giới. Cũng tinh thần ấy, tinh thần "chống dịch như chống giặc", chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan và giảm thiểu được thiệt hại kinh tế do COVID-19 gây ra. Những thành quả đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, là sự hòa quyện của "Ý Đảng và Lòng Dân"”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm chúng ta cần phải củng cố niềm tin vào những giá trị truyền thống, tin vào bản lĩnh, khí phách, sự gan góc của một dân tộc anh hùng. Nền kinh tế chúng ta, đất nước chúng ta đang tiến nhanh về phía trước với tốc độ mà cách đây ít năm một số đánh giá cho rằng điều này khó có thể xảy ra và chắc chắn rằng dân tộc chúng ta sẽ tiếp tục tiến nhanh hơn nữa về phía trước như tinh thần dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 của Đảng sắp khai mạc vào ngày 25/1/2021.

Sứ mệnh của chúng ta là kiến tạo một môi trường mà ở đó mọi người dân đều có cơ hội tham gia đóng góp vào sự phát triển và "không để ai bị bỏ lại phía sau". Chúng ta đã cùng nhau đạt được những kết quả bước đầu, và không được chủ quan bởi chúng ta còn có thể làm tốt hơn thế. Bên cạnh việc đầu tư những dự án lớn quốc gia, chúng ta cũng không được bỏ sót những dự án nhỏ, những con đường, chiếc cầu ở nông thôn, miền núiCác cháu phải có cầu qua sông để đi học, đó là mệnh lệnh của trái tim! Cùng với giao thông, hạ tầng viễn thông cũng sẽ được nâng cấp và bao phủ hơn nữa, nhất là mạng 5G.

Giáo dục, đào tạo và dạy nghề là một cách trao cơ hội tốt nhất để mỗi người dân có thể tự mình tìm kiếm được một công việc phù hợp. Chúng ta sẽ phải nâng cấp chất lượng giáo dục, dạy nghề bắt đầu với việc lựa chọn, khuyến khích những thầy giáo, cô giáo có năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và đạo đức nghề nghiệp. Đất nước ta phải luôn đề cao tinh thần "tôn sư trọng đạo", "tiên học lễ, hậu học văn". Chính phủ phải đảm bảo môi trường học tập an toàn, lành mạnh, không có bạo lực, khói thuốc và chất kích thích, nhất là tệ nạn ma túy; xóa bỏ bệnh thành tích trong giáo dục.

Cùng với giáo dục, Đảng và Nhà nước ta sẽ đầu tư để có được một hệ thống chăm sóc sức khỏe có chất lượng, dễ dàng tiếp cận và chi phí phù hợp cho mọi người dân, nhất là đối với người dân vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Chúng ta phải tiếp tục mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm y tế lên 100% trong thời gian sớm nhất, đồng thời phải sớm thực hiện thông tuyến, mở rộng phạm vi thanh toán bảo hiểm y tế, nhất là đối tượng trẻ em, người già, người có hoàn cảnh khó khăn; hướng tới trẻ em dưới 16 tuổi cần được Nhà nước chi trả bảo hiểm y tế hoàn toàn.

Như tôi đã phát biểu trước Quốc hội mới đây, Chính phủ không chấp nhận tình trạng bệnh nhân mù mờ trước chi phí y tế. Chúng ta rất vui khi ngay sau đó, Bộ trưởng Bộ Y tế đã khai trương Cổng Công khai Y tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều việc cần làm để hệ thống y tế của chúng ta phục vụ nhân dân tốt hơn. Chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan của COVID-19 trong cộng đồng, và phải nỗ lực để không cho dịch tái bùng phát. Hiện Vaccine phòng COVID-19 đang tiến triển tốt. Chính phủ nỗ lực để không ai bị bỏ rơi do chi phí Vaccine cao vượt khả năng chi trả của người dân.

Cùng với giáo dục và y tế, chúng ta cũng đang xây dựng một lưới an sinh xã hội rộng lớn để bảo vệ những người yếu thế trong xã hội. Chúng ta phải có trách nhiệm chăm lo cho những người có công với đất nước; người nghèo, người tàn tật, người già, nhất là người già neo đơn; bảo vệ phụ nữ và trẻ em, nhất là trẻ em gái trước vấn nạn xâm hại tình dục, trẻ em bị ngược đãi về thể chất và tinh thần. Cùng với bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp cũng rất quan trọng để giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn, tìm được một cơ hội việc làm mới. Chúng ta thường xuyên quan tâm đến công tác quốc phòng an ninh và đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển, đặc biệt là trên Biển Đông.

Bên cạnh hai trụ cột Kinh tế và Xã hội, chúng ta phải chú trọng hơn nữa vấn đề Môi trường. Mọi người đều phải có trách nhiệm nhiệm bảo vệ môi trường, từ không khí cho đến nguồn nước, từ dòng sông cho đến con suối, từ hồ ra đến biển. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính Phủ đã yêu cầu đóng cửa rừng tự nhiên. Trước Quốc hội, Thủ Tướng CP đã đề xuất trồng 1 tỉ cây xanh trong 5 năm tới.

Cả hệ thống chính trị chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một xã hội phát triển toàn diện, ở đó mọi tầng lớp nhân dân bất kể thành phần, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tuổi tác… đều có cơ hội chung tay góp sức, chia sẽ khát vọng mãnh liệt về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.

Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 đặt mục tiêu:

Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 khoảng 6%, lạm phát khoảng 4%, cùng 10 chỉ tiêu KT-XH khác. Những chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở đã tính toán, cân đối các nguồn lực gắn với bối cảnh dự báo cho năm 2021, nhất là tình hình COVID-19 trong nước và thế giới. Mặc dù để đạt được mục tiêu này là rất thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu trong điều hành GDP 2021 thêm ít nhất 0,5 điểm phần trăm, lên mức 6,5% và đặt quyết tâm cao hơn cho các chỉ tiêu KT-XH khác.

Đất nước ta sẽ tiếp tục đối diện với nhiều cơ hội mới đan xen thách thức mới. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần tiếp tục hun đúc, gìn giữ ngọn lửa khát vọng, tinh thần lạc quan, bền bỉ cho 5 năm tiếp theo và xa hơn, với niềm tin và sự kiên định với lý tưởng và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ năm 2021. Ảnh: VGP

NHIỀU DẤN ẤN NỔI BẬT TRONG 5 NĂM QUA

Báo cáo tóm tắt về  tình hình thực hiện kế  hoạch phát triển kinh tế  -  xã hội   năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết:

Nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020 được thực hiện  trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Tình  hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn  trên thế giới và trong khu vực ngày càng gay gắt. Xung đột thương mại và rủi ro trên  thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, từ đầu năm 2020, đại dịch  Covid-19 xuất hiện và bùng phát trên toàn cầu dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới  nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại khủng hoảng 1929 - 1933. Ở trong nước, sau hơn 30  năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, những khó  khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế và thiên tai, dịch bệnh, nhất là Đại dịch Covid 19, bão lũ, sạt lở đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện mục tiêu phát  triển kinh tế, xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020. 

Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội về phát triển KTXH 5  năm 2016 - 2020 và hằng năm, Chính phủ đã chủ động ban hành các nghị quyết, chương  trình hành động cụ thể; xây dựng các phương án, kịch bản điều hành và quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Tinh thần chung trong chỉ đạo điều hành là quyết tâm xây dựng  Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân. 

Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hưởng  ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy  ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều  kết luận, nghị quyết, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện "mục tiêu  kép": vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần "chống dịch như chống giặc", vừa  tập trung phục hồi và phát triển KTXH, bảo đảm đời sống nhân dân. Tập trung chỉ đạo  thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh,  hỗ trợ người lao động, người dân gặp khó khăn. Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công,  thúc đẩy tiến độ các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, chú trọng chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã  hội; triển khai linh hoạt, hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá  hình ảnh đất nước Việt Nam an toàn, nhân văn, tốt đẹp. 

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu  rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong  năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020.

1. Cả nước đã tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh, tạo điều kiện  thuận lợi cho phục hồi và phát triển KTXH. Trong khi đại dịch Covid-19 còn diễn  biến phức tạp trên toàn cầu, chúng ta đã sớm kiểm soát, khống chế được dịch bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam là quốc gia kiểm  soát tốt dịch bệnh, có cách làm đúng, kịp thời, hiệu quả, chi phí thấp. Thành công này  thể hiện sự quyết tâm cao, ý chí thống nhất, hành động quyết liệt của toàn Đảng, toàn  dân, toàn quân ta; thể hiện sức mạnh đoàn kết, truyền thống yêu nước, tinh thần  tương thân, tương ái của dân tộc; củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, khẳng định tính ưu việt của hệ thống chính trị và bản  chất tốt đẹp của chế độ ta.

2. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng  được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng  giai đoạn 2016 - 2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch  bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015 (theo Quỹ Tiền tệ Quốc  tế, năm 2020 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN); GDP bình  quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải  thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng  hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 - 35%). Tăng  trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, ngày càng dựa vào khoa  học, công nghệ. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ giá, thị trường  ngoại hối khá ổn định; lãi suất có xu hướng giảm dần; cán cân thanh toán thặng dư;  hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện. Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường.  Thu NSNN năm 2020 đạt 96% dự toán. Cơ cấu lại NSNN đạt kết quả tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng lên 81,6% (giai đoạn 2011 - 2015 là 68,7%); tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng lên 27 - 28%, tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn 62 - 63%. Bội chi  NSNN và nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn và giảm so với giai đoạn  trước. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt khoảng 33,4%. Tổng kim ngạch  xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020  ước đạt 19,1 tỷ USD). Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường, phòng  chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường. 

3. Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt những kết quả tích  cực. Đã hình thành hệ thống pháp luật khá đầy đủ, toàn diện. Các loại thị trường vận  hành cơ bản thông suốt, bước đầu gắn kết với khu vực và quốc tế. Chất lượng nguồn  nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 64,5%. Tiềm lực khoa học và  công nghệ được tăng cường. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia có  bước phát triển. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp  thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Hệ thống kết  cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được tập trung nguồn lực đầu tư; nhiều công trình, dự án  quan trọng đã được khởi công, xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo thêm năng  lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất nước. 

4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt nhiều kết  quả. Vốn đầu tư công được tập trung cho những dự án cấp bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ NSNN thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong giai đoạn 2011-2020. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử l nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm  ổn định, an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức dưới 3%. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều  DNNN được nâng lên. 12 dự án yếu kém của ngành công thương được xử lý và đạt  kết quả bước đầu, một số dự án đã có lãi và giảm lỗ lũy kế; đưa 3 dự án ra khỏi danh  sách theo dõi, xử lý của Ban chỉ đạo.

Cơ cấu giữa các ngành và nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng  ngành khai khoáng giảm, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh; tỷ trọng  hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020. Tập trung phát  triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ; kinh tế hợp tác  và doanh nghiệp nông nghiệp phát triển mạnh; xây dựng nông thôn mới hoàn thành  trước thời hạn gần 2 năm; đến nay đã có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu  đề ra (50%); xuất khẩu nông sản năm 2020 ước đạt trên 41 tỷ USD. Nhiều ngành dịch  vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học công nghệ cao phát triển nhanh. 

5. Phát triển văn hoá, xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được  bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính sách đối với người có công  với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có công được nâng lên; đến nay  có gần 1,4 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Tỷ lệ hộ nghèo  theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020. Diện bao  phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm 2015, chiếm gần 33% lực lượng lao  động. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai nền tảng  hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh viện tuyến trên với  1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 75%  năm 2015 lên 90,85% năm 2020. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được  tích cực triển khai; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng  lên. Trong bối cảnh dịch Covid-19, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT thành hai đợt, bảo  đảm nghiêm túc, công bằng và an toàn. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt  Nam có những chuyển biến tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các  lễ kỷ niệm lớn, sự kiện quan trọng của đất nước được tổ chức trang trọng, thiết thực và  an toàn. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình,  bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích cao có  bước tiến bộ. Đã trình Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chủ trương đầu tư Chương  trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi  giai đoạn 2021 - 2030. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện, thuộc nhóm  nước có mức phát triển con người cao của thế giới, xếp hạng 117/189 quốc gia và vùng  lãnh thổ (năm 2019).

6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu có  những chuyển biến rõ nét. Tập trung chỉ đạo kịp thời hỗ trợ khắc phục hậu quả, sớm ổn định đời sống và sản xuất của người dân vùng bị thiên tai, đặc biệt là bão lũ, sạt lở đất ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên vừa qua. Chấn chỉnh công tác cấp phép tài nguyên,  khoáng sản, ngăn chặn khai thác cát, sỏi trái phép. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ  sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tập trung thực hiện cấp giấy chứng nhận  quyền sử dụng đất. Công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả, ứng phó các sự cố thiên

tai và cứu hộ, cứu nạn được chú trọng. Thực hiện hiệu quả các chương trình về ứng phó  với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững (nhất là vùng đồng bằng  sông Cửu Long). Chỉ số phát triển bền vững năm 2020 của Việt Nam tăng 39 bậc so với  năm 2016, xếp thứ 49/166 quốc gia và vùng lãnh thổ.

7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính  chuyển biến tích cực, môi trường kinh doanh được cải thiện; phòng chống tham  nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn  tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tỷ lệ tinh giản biên chế công chức, biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN lần lượt đạt 8,68% và 7,56%. Đã hoàn thành việc  sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được  tăng cường. Tập trung thực hiện đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện  môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đến nay đã cắt giảm,  đơn giản hóa 63% điều kiện kinh doanh, 68% danh mục hàng hóa phải kiểm tra  chuyên ngành. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông đi vào nền nếp, chất lượng giải  quyết hồ sơ có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt trên 97%. Tinh thần  khởi nghiệp lan toả rộng rãi; các mô hình kinh doanh mới và phong trào đổi mới, sáng  tạo được đẩy mạnh. Mỗi năm có trên 100 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn  đăng k bình quân tăng hơn 1,8 lần so với năm 2015. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng  vai trò quan trọng trong nền kinh tế; đã hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn  có năng lực cạnh tranh quốc tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều mô hình mới, hiệu  quả. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ xếp hạng 88/183 năm 2010 lên xếp hạng 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2019.  Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng và có  chuyển biến tốt; đã điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế,  tham nhũng nghiêm trọng; công khai kết luận thanh tra, trong đó có những những vụ việc phức tạp được dư luận, xã hội quan tâm như AVG, Khu đô thị mới Thủ Thiêm,..

8. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững;  đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng. Quốc phòng toàn dân, an  ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Thực hiện đồng bộ các chiến lược, đề án về quân sự, quốc  phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động nắm  chắc tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn,  phá hoại của các thế lực thù địch, phản động; xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp về an  ninh, trật tự; tình hình tội phạm, tai nạn giao thông giảm dần. Đối ngoại và hội nhập  quốc tế được triển khai chủ động, toàn diện, đồng bộ, đạt nhiều kết quả quan trọng; ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do. Đảm nhiệm thành công nhiều  cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực. Uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được khẳng định và nâng cao. 

Bên cạnh kết quả đạt được, chúng ta thẳng thắn nhìn nhận nước ta vẫn còn  những tồn tại, hạn chế, bất cập. Tăng trưởng kinh tế năm 2020 không đạt kế hoạch đề ra do tác động của đại dịch Covid-19, dẫn đến tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 không đạt mục tiêu. Khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu.  Đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực chính thúc đẩy năng suất lao động,  năng lực cạnh tranh. Cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở một số lĩnh vực  hiệu quả chưa cao. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, khoảng cách  phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp. Việc thực hiện gói hỗ trợ người lao động,  doanh nghiệp bị ảnh hưởng sâu bởi đại dịch COVID-19 chưa đạt yêu cầu đề ra. Cải cách  hành chính một số lĩnh vực còn bất cập; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn  khó khăn. Kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm. Còn tình  trạng thiếu quyết liệt, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn  nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến  phức tạp. Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời.  Khiếu kiện về đất đai còn những vụ việc phức tạp, kéo dài. 

Ảnh: VGP

Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021 và thời gian tới, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết:

Năm 2021 có nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn  quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển KTXH 10 năm  2021 - 2030. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.  Hoà bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược  giữa một số quốc gia, đối tác lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột thương mại gia tăng  và những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy  cơ về tài chính, tiền tệ, nợ công trên phạm vi toàn cầu và những thách thức lớn đối với  thương mại, đầu tư, tăng trưởng và các vấn đề xã hội.

Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều với nền  tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính trị - xã hội ổn định, vị thế uy tín quốc tế cao. Việt  Nam được đánh giá là quốc gia nhiều tiềm năng, có thị trường gần 100 triệu dân với  thu nhập ngày càng tăng, cơ cấu dân số vàng; không gian phát triển rộng mở với 14 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục gặp nhiều khó  khăn, thách thức. 

Chỉ tiêu cụ thể đặt ra cho năm 2021 với 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó: tổng sản  phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng  4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng  khoảng 45-47%; năng suất lao động xã hội tăng khoảng 4,8%; tỷ lệ lao động qua đào  tạo khoảng 66% (trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng  25,5%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế khoảng 91%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1-1,5 điểm phần  trăm so với năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%...

Nhiệm vụ của năm 2021 và thời gian tới là rất nặng nề đòi hỏi các cấp, các  ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, hành  động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận  dụng tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển  đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay  đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu… để thực hiện thành  công các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2021, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực  hiện các mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển đất nước trong 5 năm, 10 năm tới  và hiện thực hoá khát vọng phát triển đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát  triển, thu nhập cao theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.

Phó Thủ  tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020.  - Ảnh: VGP

KHÓ KHĂN GẤP HAI, NỖ LỰC GẤP BA

Trình bày báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết: Quán triệt phương châm từ đầu nhiệm kỳ là “Xây dựng Chính phủ kiến tạo,  liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân”; năm 2020 Chính phủ đã đề ra phương  châm: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả” với 138  nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; 49 nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh.

Trước tình hình dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo  thống nhất quan điểm điều hành với tinh thần “khó khăn gấp hai thì phải nỗ lực, cố gắng gấp ba”, quyết tâm thực hiện "mục tiêu kép"; phấn đấu hoàn thành mức cao  nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong điều kiện “bình thường mới”.

Về một số trọng tâm chỉ đạo, điều hành nổi bật, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của  Đảng, sự giám sát của Quốc hội; luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm trước  Nhân dân và đất nước, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của  pháp luật; chủ động, tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ, linh hoạt, sáng tạo, quyết  liệt trong điều hành, vừa thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, vừa xử lý kịp  thời những vấn đề đột xuất, phát sinh, trong đó nổi bật là: 

1. Chủ động, quyết liệt, ứng phó kịp thời, ngăn chặn, kiểm soát tốt đại dịch  COVID-19; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến  đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. 

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động đánh giá đúng tình hình, coi  phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng; đề ra các  giải pháp kịp thời, kiên quyết, sớm hơn và cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y  tế Thế giới và phù hợp diễn biễn dịch với phương châm “4 tại chỗ”. Chú trọng thực  hiện chiến lược ngăn chặn dịch từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để; điều trị hiệu quả các ca nhiễm; tự chủ trong sản xuất vật tư, trang thiết bị y tế, nhất là việc  phát triển sản xuất vắc-xin COVID-19. Huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết của  cả hệ thống chính trị, cộng đồng xã hội, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại  khó khăn, nguy hiểm của đội ngũ y bác sỹ, lực lượng quân đội, công an, tạo nên  sức mạnh tổng hợp ngăn chặn thành công dịch COVID-19.

Từ đầu nhiệm kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt chủ trương “không đánh  đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; “kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên”. Tăng cường công tác giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề môi trường.

Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo khắc phục sự cố môi trường tại 4 tỉnh ven biển  miền Trung. Tăng cường quản lý chất thải rắn, ngăn chặn rác thải nhựa. Chuyển  từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa trong phòng, chống thiên tai, thích  ứng với biến đổi khí hậu. Triển khai sớm các giải pháp cấp bách kiểm soát hạn hán, 

xâm nhập mặn, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long nên diện tích lúa bị thiệt  hại năm 2020 chỉ bằng 9,6% so với năm 2016. Tập trung chỉ đạo với phương châm  “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn tại các tỉnh miền Trung,  Tây Nguyên; rà soát, cập nhật các kịch bản phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất; kịp thời ban hành chính sách hỗ trợ khắc phục thiệt hại.

2. Hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp do đại dịch Covid 19; bảo đảm an sinh xã hội và ổn định đời sống cho nhân dân.

Năm 2020, trước tác động của dịch COVID-19, với tinh thần nhất quán “không  để ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã kịp thời báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy  ban Thường vụ Quốc hội thông qua và triển khai nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ vượt trội, chưa từng có tiền lệ về tài khóa, tín dụng, bảo hiểm xã hội, giảm giá  điện, giá cước viễn thông... Tăng cường bảo hộ công dân, tổ chức các chuyến bay  đón hơn 75.000 người Việt Nam về nước an toàn. Giai đoạn 2016-2020, các chính  sách an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ; triển  khai tích cực Đề án và chủ trương đầu tư phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc  thiểu số và miền núi. 

3. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phục  hồi và phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ luôn kiên định, nhất quán mục tiêu ổn định  kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách  kinh tế vĩ mô, nhất là phối hợp hài hòa chính sách tài khóa và tiền tệ; theo dõi sát  tình hình, chủ động xây dựng, cập nhật kịch bản tăng trưởng với phương án, giải  pháp kịp thời, phù hợp, đặc biệt là kịch bản phục hồi kinh tế năm 2020 để tận dụng  tốt thời cơ, giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Công tác giải ngân  vốn đầu tư công gắn với đẩy nhanh tiến độ các dự án quan trọng quốc gia là nhiệm  vụ xuyên suốt của giai đoạn 2016-2020; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đổi mới toàn diện công tác giao, điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công; đề xuất  Quốc hội cho phép Chính phủ linh hoạt trong việc giao vốn, điều chuyển vốn đầu  tư công. Riêng năm 2020, Chính phủ đã tổ chức 03 Hội nghị trực tuyến toàn quốc;  thành lập 07 đoàn công tác kiểm tra, đôn đốc công tác này.

Khơi thông xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy  giảm nghiêm trọng; thúc đẩy phát triển bền vững thị trường nội địa. Chính phủ chỉ đạo cơ cấu lại thị trường, mặt hàng xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường;  kịp thời tháo gỡ khó khăn phát sinh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới thông qua các hiệp định thương mại tự do. Qua đó, duy trì mức xuất siêu tăng dần  qua các năm; xuất siêu kỷ lục năm 2020 dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid 19. Chú trọng phát triển thị trường nội địa, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động  Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, tăng cường kết nối cung cầu hàng  hoá giữa khu vực nông thôn và thành thị, phát triển thương mại điện tử, bảo đảm  cung cầu hàng hóa trong mọi tình huống. Tăng cường quản lý thị trường, phòng  chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.

4. Khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương và từng vùng; khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, thu hút các nguồn lực cho phát triển. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Trước tác động  kép thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các giải pháp ổn định sản  xuất nông nghiệp; năm 2020 sản xuất lúa được mùa, được giá, bảo đảm an ninh  lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu. Hoàn thành mục tiêu xây dựng nông  thôn mới giai đoạn 2016-2020 trước gần 2 năm. Tập trung tháo gỡ khó khăn, khôi  phục chuỗi cung ứng, phát triển công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, tạo động lực  cho phục hồi, phát triển kinh tế. Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa, điển hình là ngành công nghiệp ô tô.

Với phương châm Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, ngay từ đầu nhiệm  kỳ và hằng năm, Thủ tướng Chính phủ gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, đề ra các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Tập trung hoàn thiện các chính  sách phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết của Đảng.  Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Thủ tướng CP đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để

bàn các giải pháp cùng doanh nghiệp “nỗ lực, vượt thách thức, đón thời cơ, phục hồi  nền kinh tế”, tiếp tục duy trì tinh thần hứng khởi kinh doanh trong toàn xã hội. Đẩy  mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Thành lập Tổ công tác về đầu tư để đón đầu làn sóng đầu tư mới từ nước ngoài.  Chính phủ đã khẩn trương rà soát, hoàn thiện việc lập quy hoạch vùng, quy  hoạch tỉnh; đánh giá thực trạng các vùng kinh tế trọng điểm, đề ra giải pháp đổi mới  cơ chế, chính sách điều phối liên kết vùng; trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính  sách, mô hình đặc thù đối với một số địa phương, tạo lan tỏa phát triển. Đẩy mạnh triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Chấn chỉnh công tác quy  hoạch xây dựng, phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. 

5. Tập trung rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế; đẩy mạnh đấu tranh  phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo. 

Giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định công tác xây  dựng pháp luật là khâu đột phá, đã ưu tiên, dành nhiều thời gian cho công tác này,  nhất là tại phiên họp Chính phủ thường kỳ và 7 phiên họp chuyên đề. Chính phủ đã  đổi mới tư duy, quy trình xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng kiến tạo, tạo  hành lang, khuyến khích phát triển, một văn bản sửa nhiều văn bản, cắt giảm tối đa  văn bản quy định chi tiết, ban hành văn bản mới phải bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ.  Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và ban hành theo  thẩm quyền hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát  triển đất nước. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác rà soát mâu thuẫn trong các  văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Quốc hội. Lần đầu tiên, Chính phủ tổ chức  Hội nghị toàn quốc đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật giai đoạn  2016 - 2020 và Thủ tướng CP đã ban hành chỉ thị để tiếp tục tăng cường hiệu quả  công tác này.

Chính phủ thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch công tác trọng tâm  của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; chỉ đạo tăng cường  thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng; phát hiện, xử lý  nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản; ban hành cơ sở pháp lý  cho việc kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác đặc biệt và đã giải  quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; số vụ việc khiếu  nại, tố cáo và số đoàn đông người giảm, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân. Xử lý hiệu quả các tranh chấp đầu tư quốc tế, giảm thiểu thiệt hại cho nhà nước.

6. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện  tử; đổi mới phương thức làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”, giai  đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng CP chú trọng đẩy mạnh cải cách thủ tục  hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện  thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, giảm giấy tờ; đổi mới công tác điều  hành dựa trên nền tảng dữ liệu số. Tiếp tục phát huy hiệu quả của các hệ thống  thông tin chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Chính phủ đã ban  hành 71 văn bản quy phạm pháp luật để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành.

Chính phủ tập trung hoàn thiện khung pháp lý; chỉ đạo các bộ, ngành, địa  phương rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, giảm bớt chồng chéo  chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,  viên chức gắn với tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết của Trung ương; đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác  kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và Tổ công  tác về kiểm tra công vụ, qua đó kỷ luật công vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ  được giao có nhiều chuyển biến tích cực.

7. Quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, cải thiện chất  lượng cuộc sống của Nhân dân; tăng cường thông tin, truyền thông tạo đồng  thuận xã hội.

Phát huy, lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh  đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc thông qua  các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền nhân dịp kỷ niệm ngày  lễ lớn của đất nước và trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, khắc phục hậu  quả thiên tai, bão lũ.... Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tổ chức dạy học trực tuyến và kỳ thi năm 2020 bảo đảm an toàn, nghiêm túc, khách  quan, thuận lợi trong điều kiện dịch bệnh. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh; nâng cao năng lực y tế cơ sở.  Đẩy mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, khuyến khích xã hội hóa. Tích cực xây dựng, triển khai chính sách khuyến khích phát triển Trung tâm Đổi  mới sáng tạo quốc gia. Thu hút, trọng dụng cá nhân trong nước, nước ngoài và  người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại Việt Nam. 

8. Tăng cường quốc phòng, an ninh; chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt  động đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ động nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc  độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.  Bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội,  đối ngoại quan trọng của đất nước, nhất là Đại hội đảng bộ các cấp, Hội nghị cấp  cao ASEAN... Trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các  diễn đàn khu vực và quốc tế quan trọng, nổi bật là việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018; đảm  nhiệm tốt vai trò Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc  nhiệm kỳ 2020-2021; tổ chức thành công cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên  lần thứ 2 tại Hà Nội và đặc biệt là vai trò Chủ tịch ASEAN 2020. Tiếp tục làm sâu  sắc thêm các mối quan hệ song phương, tăng cường quan hệ với các nước lớn, các  đối tác quan trọng. Tích cực thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu  quả 14 hiệp định thương mại tự do, trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, thị trường rộng lớn như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình  Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp  định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP).

Về tồn tại, hạn chế, kỷ cương, kỷ luật hành chính, đổi mới lề lối làm việc trong một số cơ quan, đơn  vị chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn chậm. Trách nhiệm  của một số bộ, ngành trong phối hợp xử lý công việc chưa cao. Còn thiếu quyết liệt  chưa chủ động tìm hướng đi mới, chậm phản ứng trước những vấn đề phát sinh.

Về một số bài học kinh nghiệm, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nêu rõ:

Một là, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; huy  động và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước. Hai là, coi trọng công tác dự báo, bám sát thực tiễn; thống nhất cao trong  nhận thức và hành động; đề cao tính chủ động, đổi mới, sáng tạo và phối hợp chặt  chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành.

Ba là, khơi dậy truyền thống, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa tốt đẹp, tinh  thần nhân ái và niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển và vươn lên mạnh mẽ. Bốn là, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương; xây  dựng nền kinh tế tự lực, tự cường, đổi mới, hội nhập và phát triển. Năm là, biến thách thức thành cơ hội, đổi mới tư duy, cách làm với phương  châm phục vụ người dân, doanh nghiệp; tận dụng các cơ hội của Cuộc cách mạng  công nghiệp 4.0 thích ứng nhanh với bối cảnh mới.

Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của năm 2021, Chính phủ đề cao tinh thần  đoàn kết, kỷ cương; yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung thực  hiện “mục tiêu kép”, không lơ là, chủ quan trước đại dịch; tranh thủ thời cơ, nỗ lực  phục hồi và phát triển KTXH trong trạng thái bình thường mới với khát vọng phát  triển, tinh thần đổi mới sáng tạo, cải cách mạnh mẽ, quyết liệt hành động hơn nữa.  Phát huy trách nhiệm người đứng đầu, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các  mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2021, tạo nền tảng vững chắc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. - Ảnh: VGP

NĂM 2021: 8 TRỌNG TÂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH, 185 NHIỆM VỤ CỤ THỂ

Trình bày về dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và Dự toán NSNN năm 2021, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết: Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, bầu cử HĐND các cấp và là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030; Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, và các kế hoạch theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.

Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; đại dịch Covid-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài.

Trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp; yêu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn chế.

Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn trong năm 2021.

Chính phủ xác định phương châm hành động của năm 2021 là: "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển " và đề ra 08 trọng tâm chỉ đạo, điều hành:

(1) Chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng để phục vụ tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

(2) Thực hiện hiệu quả "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới.

Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả và đồng bộ các chính sách vĩ mô để kích thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn.

Theo dõi sát diễn biến, tình hình trong nước và quốc tế, kịp thời dự báo và chuẩn bị phương án, kịch bản, biện pháp, đối sách ứng phó hiệu quả với những biến động, vấn đề mới phát sinh.

(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Đổi mới quản trị quốc gia. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật. Nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

(4) Quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm hiệu quả, thực chất gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, cung cấp các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, thu hút mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

(5) Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, trí tuệ con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường, niềm tự hào dân tộc.

Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao.

Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.

Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.

(6) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Phát triển mạnh hạ tầng số.

Đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, các dự án liên kết vùng, bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập;

Phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn.

(7) Củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển nhanh, bền vững; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

(8) Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, kịp thời phản ánh, lan tỏa các nhân tố tích cực để tạo niềm tin, đồng thuận trong toàn xã hội.

Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các chỉ tiêu KTXH năm 2021 gồm:

a) 12 chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết số 124/2020/QH14 của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ (Phụ lục 1).

b) 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực (Phụ lục 3). Đây là các chỉ tiêu cụ thể mà Chính phủ đặt ra cho các ngành, lĩnh vực bên cạnh 12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao.

c) Kịch bản tăng trưởng năm 2021 (Phụ lục 2) chia theo từng quý và cả năm.

Nghị quyết đề ra 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu và 185 nhiệm vụ cụ thể tại Phụ lục 4.

Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là:

(1) Triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ để phục vụ tổ chức thành công Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp;

Xây dựng, ban hành ngay các chương trình hành động, kế hoạch công tác để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.

(2) Tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế.

Đẩy nhanh việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong phát triển vắc-xin và có giải pháp để người dân tiếp cận vắc-xin phòng dịch Covid-19 sớm nhất.

Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả nguồn bệnh xâm nhập từ bên ngoài, xem xét mở lại các đường bay thương mại quốc tế khi điều kiện cho phép.

Chủ động bố trí nguồn lực, triển khai kịp thời, phù hơp các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.

(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo thuận lợi cho phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững.

Điều hành chủ động, phối hợp chặt chẽ các chính sách, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.

 (4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số. Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.

Nâng cao chất lượng và tích hợp cung cấp dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia.

Phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo.

(5) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển; đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng.

Phát triển kinh tế biển; tăng cường liên kết vùng; quản lý và phát triển đô thị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực phù hợp cho xây dựng nông thôn mới.

(6) Nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, có giải pháp thu hút, bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.

Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Phát huy vai trò hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo.

(7) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế.

Nâng cao trình độ, thành tích của thể thao thành tích cao. Tổ chức tốt việc đăng cai SeaGames 31 và ASEAN Para Games 31. Bảo đảm an ninh y tế, an toàn thực phẩm, chất lượng tiêm chủng, khám, chữa bệnh.

Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững; bảo đảm việc làm, thu nhập, an sinh xã hội cho người dân; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách về giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Triển khai thực hiện kịp thời các nhiệm vụ về công tác dân tộc trong tình hình mới.

 (8) Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.

Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.

 (9) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện có hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

(10) Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển đất nước.

Tăng cường các nguồn lực thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quân đội, bảo đảm quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trên các tuyến biên giới, biển đảo, địa bàn chiến lược, trọng điểm.

Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng của đất nước.

 (11) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo niềm tin, đồng thuận xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường phối hợp công tác giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Về tổ chức thực hiện, dự thảo Nghị quyết yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải cụ thể hoá Nghị quyết bằng cac chương trình hành động cụ thể của bộ, ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.

Các Bộ, ngành phải làm tốt công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như thực hiện tốt công tác quản lý ngành, lĩnh vực để đảm bảo thực hiện thành công Nghị quyết của Chính phủ về phát triển KTXH, NSNN năm 2021. 

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. - Ảnh: VGP

NHIỀU CHỈ SỐ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH TIẾN BỘ VƯỢT BẬC

Báo cáo tóm  lược Kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 và Dự thảo Nghị quyết  02/NQ-CP năm 2021 về cải thiện môi trường kinh doanh và âng cao năng lực cạnh  tranh quốc gia, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết:

Thực hiện các Chương trình cải cách hành chính đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nỗ lực tháo gỡ nhiều khó khăn  vướng mắc, khai thông nguồn lực trong xã hội, thu hút đầu tư từ bên ngoài. Việt  nam luôn được coi là một địa điểm đầu tư hấp dẫn và là nền kinh tế năng động,  có độ mở lớn và duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao trên thế giới. Từ đầu  nhiệm kỳ Chính phủ đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao  năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cải cách, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.

Từ năm 2014, hàng năm Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về cải thiện  môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (những năm đầu là  Nghị quyết 19/CP và từ năm 2019 là Nghị quyết 02/CP) với các mục tiêu, giải  pháp rất cụ thể, bám sát vào các bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế có uy tín. Bước  sang nhiệm kỳ này, phù hợp với Chương trình Nghị sự vì sự phát triển bền vững  của Liên hợp quốc, Nghị quyết của Chính phủ đã mở rộng bao quát thêm các bộ chỉ số hàm chứa những yếu tố có tính căn bản, nền tảng, dài hơi hơn ngoài các chỉ số liên quan tới môi trường kinh doanh trong ngắn hạn như các bộ chỉ số về Phát  triển nguồn nhân lực, phát triển Chính phủ điện tử, Năng lực Đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 02/CP năm 2020 được xây dựng dựa trên 7 bộ chỉ số với trên 200 tiêu  chí đo lường chi tiết liên quan tới hầu hết các lĩnh vực, các ngành, các cấp và có  phân công cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm cho từng nhóm tiêu chí; thậm chí từng  tiêu chí quan trọng.

Các Nghị quyết 19/CP và sau này là Nghị quyết 02/CP của Chính phủ đã  nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính  quyền từ trung ương tới địa phương; sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp,  sự tham gia của toàn xã hội. Qua đó đã góp phần hoàn thiện thêm một bước thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tháo gỡ được nhiều rào cản, khó khăn  vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân. Phần lớn các chỉ số được đánh giá  định kỳ 1 năm hoặc 2 năm của các tổ chức quốc tế đều ghi nhận sự tiến bộ rõ về điểm số tuyệt đối và cải thiện thứ hạng của Việt Nam. 

Trực tiếp nhất là thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 20  bậc, từ thứ 90 năm 2015 lên thứ 70 năm 2019. Xếp hạng Năng lực cạnh tranh được thay đổi cách đánh giá từ năm 2018 thành Năng lực cạnh tranh 4.0. Khi đó  Việt Nam đứng thứ 77. Một năm sau vị trí của chúng ta đã tăng 10 bậc lên thứ 67. 

Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, từ thứ 75 năm 2015 lên thứ 63 năm  2019. Xếp hạng Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, từ thứ 64 năm 2016 lên thứ 39.  Xếp hạng Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc từ thứ 59 năm 2016 lên thứ 42  năm 2020. 

Trong các bộ chỉ số, các bảng xếp hạng quốc tế đó, có không ít chỉ số, tiêu  chí cụ thể của nước ta ghi nhận những tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng  tăng 81 bậc, từ thứ 108 (năm 2015) lên thứ 27 (năm 2019). Nộp thuế và BHXH tăng  59 bậc, từ thứ 168 (năm 2015) lên thứ 109 (năm 2019). Ứng dụng CNTT tăng 54  bậc, từ thứ 95 (năm 2015) lên thứ 41 (năm 2019) .v.v. 

Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc từ thứ 88 năm 2016  lên thứ 49 năm 2020. Đây là bộ chỉ số được Liên hợp quốc xây dựng, đánh giá  dựa trên các tiêu chí bám sát 17 nhóm mục tiêu phát triển bền vững (với 169  mục tiêu cụ thể).

Cộng đồng doanh nghiệp trong nước cũng ghi nhận rất tích cực những kết  quả, tiến bộ trong thực hiện các Nghị quyết này.

Bên cạnh những kết quả quan trọng, đáng khích lệ đó, vẫn còn không ít chỉ tiêu cụ thể mà điểm tuyệt đối và thứ hạng của Việt Nam vẫn còn thấp và hầu như  không được cải thiện về thứ bậc như: Giải quyết phá sản doanh nghiệp đứng thứ 122. Rào cản phi thuế quan đứng thứ 121. Bảo vệ hệ sinh thái bền vững đứng thứ 110. Đăng ký tài sản thứ 106. Bảo vệ sở hữu trí tuệ thứ 105. Kết nối hạ tầng đường  bộ thứ 104. Ngay nộp thuế và bảo hiểm dù đã tăng tới 59 bậc nhưng vẫn đứng thứ 109.  

Thực tế những năm qua cho thấy Bộ, ngành nào chủ động, quyết tâm thì  các chỉ số được cải thiện rõ ràng hơn và ngược lại. Tới đây, việc cải thiện vị trí  càng khó và đòi hỏi nỗ lực cao hơn vì các quốc gia, nên kinh tế khác cũng rất  chú trọng công tác này. Mặt khác, nhiều tiêu chí, chỉ số không chỉ đơn thuần liên  quan tới thủ tục hành chính có thể nhận diện, sửa đổi hoặc bãi bỏ ngay mà còn  phải sửa luật và ngày càng có nhiều chỉ số phải nỗ lực liên tục trong một số năm  mới có thể cải thiện được, nhất là liên quan tới hạ tầng, nhân lực và các yếu tố xã hội. 

Phó Thủ tướng cho biết, năm 2020 này, do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, việc đánh giá xếp  hạng của các tổ chức quốc tế có những thay đổi đáng kể và nhiều bảng xếp hạng  không được công bố. Trong nước, thực hiện “mục tiêu kép” các nỗ lực thực hiện  Nghị quyết 02/CP không hề giảm. Thậm chí nhiều nhiệm vụ đã được thúc đẩy  mạnh mẽ hơn (như dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, thanh toàn không  dùng tiền mặt…). Xác định năm 2021 sẽ là năm bắt đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 nên Nghị quyết 02/CP năm 2020 cũng  đã đề ra các nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu cụ thể cho năm 2020 và định hướng cho  năm 2021. 

Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các  Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện động bộ tất cả các mục tiêu  giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thời đặt trọng  tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo  thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác.  

Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, bao gồm: Cấp phép xây  dựng (A3), Đăng ký tài sản (A7), Giải quyết tranh chấp hợp đồng (A9), Giải  quyết phá sản doanh nghiệp (A10), Chất lượng quản lý hành chính đất đai (B3),  Ứng dụng công nghệ thông tin (B5), Chất lượng đào tạo nghề (B6) và 10 tiêu chí  cụ thể. Cùng với đó là 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới  sáng tạo, bao gồm: Chất lượng hành chính đất đai, Chất lượng đào tạo nghề, Kỹ năng của sinh viên, Rào cản phi thuế quan, Đăng ký phát minh sáng chế, Kiểm  soát tham nhũng, Mức độ tiếp cận CNTT, Mức độ tham gia giao dịch trực tuyến,  Cơ hội việc làm trong các ngành thâm dụng tri thức, Môi trường trong bền vững  sinh thái. 

Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 bốn nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, gồm:  

(1) Tập trung khắc phục những yếu kém, hạn chế trong việc kết nối, phối  hợp giữa các cơ quan; làm rõ hơn vai trò cơ quan đầu mối cho từng nhóm chỉ tiêu,  từng chỉ tiêu; phân định và quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho từng cơ quan.  

(2) Tập trung chỉ đạo chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg  ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “chương trình  chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đồng bộ với  thực hiện cải cách hành chính; đảm bảo thiết thực, hiệu quả gắn với các giải pháp  tăng mức độ sẵn sàng với nền sản xuất mới trong thời kỳ CMCN lần thứ IV.  

(3) Có chiến lược, kế hoạch trung, dài hạn với mục tiêu rõ ràng, bước đi  cụ thể, kiên trì để tạo chuyển biến vững chắc đối với các tiêu chí có tính chất  nền tảng, nhưng khó cải thiện trong thời gian ngắn như bảo vệ môi trường sinh  thái, giảm nghèo đa chiều, phát triển vùng núi, vùng sâu, vùng xa v.v. phấn đầu  giữ vững và cải thiện thứ hạng phát triển bền vững đồng thời phát triển nhanh  cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững (hiện mới có 2000 DN trong tổng  số hơn 700.000 DN).  

(4) Tiếp tục chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản  xuất kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19. Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 về thực hiện nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao  năng lực cạnh tranh quốc gia và Dự thảo Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2021. 

BƯỚC TIẾN MỚI VỀ CẢI CÁCH TTHC, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng trình bày báo cáo tóm tắt kết quả cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử và hoạt  động của Tổ công tác năm 2020 và 5 năm (2016 - 2020) phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Theo báo cáo, về cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thể chế cho công tác cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh  doanh được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Từ năm 2016 đến nay, đã ban hành 37  văn bản, gồm 08 Nghị định, 19 Nghị quyết, 02 Chỉ thị, 08 Quyết định, thay đổi  căn bản quy trình thực hiện thủ tục hành chính từ thủ công, giấy tờ sang điện tử,  phi giấy tờ với 1.097 thủ tục, 992 mẫu đơn và 399 tờ khai liên quan đến thủ tục  hành chính (TTHC) được cắt giảm, đơn giản hóa. 

Trong năm 2020, đã cắt giảm thêm 239 điều kiện kinh doanh (ĐKKD). Tính chung giai đoạn 2016 - 2020, đã cắt giảm 3.893/6.191 ĐKKD, 6.776/9.926 danh  mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành (KTCN) và 30 TTHC liên quan đến  KTCN; 1.501 mặt hàng KTCN chồng chéo đã được xử lý. Đề án cải cách kiểm tra  chuyên ngành theo hướng giao cơ quan hải quan làm đầu mối KTCN tại cửa khẩu,  được khẩn trương xây dựng. Việc cắt giảm này đã giúp tiết kiệm cho xã hội, người  dân, doanh nghiệp khoảng 18 triệu ngày công/năm, tương đương 6.300 tỷ  đồng/năm. 

Giai đoạn 2016 - 2020, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã tổ chức 33 phiên họp, hội nghị với Hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước, tiếp  nhận, kiến nghị xử lý 442 vấn đề, nhóm vấn đề để kịp thời tháo gỡ khó khăn,  vướng mắc của doanh nghiệp. Năm 2020, chủ trì Chương trình nghị sự lần thứ 6  của Mạng lưới thực hành quy định tốt ASEAN-OECD với 03 phiên hội nghị trực  tuyến, giúp các nước chia sẻ kinh nghiệm về cải cách quy định để đối phó với  khủng hoảng, như đại dịch Covid-19, được OECD đánh giá là chương trình trực tuyến thành công nhất.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được nêu trên của các bộ, cơ quan, địa  phương, đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao thứ hạng của Việt Nam trong  các xếp hạng quốc tế: Xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu giai đoạn 2016- 2020 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam tăng 20 bậc, xếp thứ 70/190 quốc gia, nền kinh tế; Xếp hạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI, năng lực cạnh tranh của Việt  Nam tăng 10 bậc giai đoạn 2018-2019, từ 77 lên 67/141 quốc gia; Chỉ số Đổi mới  sáng tạo toàn cầu năm 2020 của Việt Nam xếp thứ 42/131 quốc gia, nền kinh tế,  giữ vị trí số 1 trong nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập.

Về xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản QPPL, chương  trình, chiến lược, đề án, kế hoạch, bảo đảm hành lang pháp lý cho việc xây dựng  Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.

Nhiều Hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử được đưa vào vận hành, giúp  đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước cũng như cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp:

(i) Trục liên thông văn bản quốc gia được khai trương từ ngày 12/3/2019, đến  nay đã kết nối, liên thông gửi, nhận văn bản điện tử giữa 95/95 cơ quan Trung  ương và địa phương; hơn 3,7 triệu văn bản điện tử, gửi nhận qua Trục; giúp tiết  kiệm được trên 1.200 tỷ đồng/năm.

(ii) Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ  (e-Cabinet) được vận hành từ ngày 24/6/2019 đến nay đã phục vụ 24 phiên họp  Chính phủ và hơn 620 phiếu lấy ý kiến TVCP, giúp thay thế hơn 225 nghìn hồ sơ,  tài liệu giấy; chi phí tiết kiệm được khoảng 169 tỷ đồng/năm.

(iii) Cổng Dịch vụ công quốc gia sau một năm vận hành, đã có hơn 2.650  dịch vụ công được tích hợp, cung cấp trên tổng số 6.700 TTHC (đạt tỷ lệ 39%, vượt chỉ tiêu Chính phủ giao 9%), với hơn 99 triệu lượt truy cập, hơn 412 nghìn tài  khoản đăng ký; hơn 27,2 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; trên 719 nghìn hồ sơ thực  hiện trực tuyến và hơn 46 nghìn giao dịch thanh toán điện tử; tiếp nhận, hỗ trợ trên  43,8 nghìn cuộc gọi, hơn 9,6 nghìn phản ánh, kiến nghị. Chi phí xã hội tiết kiệm  được khoảng hơn 6.700 tỷ đồng/năm.

(iv) Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020  đã kết nối với 14 bộ, cơ quan, 37 địa phương và 106/200 chỉ tiêu kinh tế - xã hội;  63/63 tỉnh đã cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 08 chỉ tiêu kinh tế - xã hội... Chi phí  tiết kiệm khi vận hành Hệ thống này khoảng 460 tỷ đồng/năm.

Tổng chi phí tiết kiệm cho xã hội ước tính trên 8.500 tỷ đồng/năm từ các Hệ thống trên (theo cách tính của OECD).

Trục liên thông văn bản quốc gia, Hệ thống e-Cabinet, Cổng Dịch vụ công  quốc gia đều được bình chọn nằm trong 10 sự kiện nổi bật về công nghệ thông tin và  truyền thông, về khoa học và công nghệ do các câu lạc bộ Nhà báo công bố năm  2019. Trong đó, Trục liên thông văn bản quốc gia đã đạt giải vàng của giải thưởng  kinh doanh quốc tế năm 2019 tổ chức tại Cộng hòa Áo, Hệ thống e-Cabinet được  vinh danh tại giải thưởng Sao Khuê năm 2020 cho giải pháp phần mềm xuất sắc. Năm 2020, theo bình chọn của Thông tấn xã Việt Nam, Cổng Dịch vụ công quốc gia  được bình chọn là đột phá của chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Liên hợp quốc xếp hạng Chính phủ điện tử năm 2020, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia, vùng lãnh thổ tăng 02 bậc so với năm 2018, duy trì việc tăng  hạng liên tục trong giai đoạn 2014-2020 từ vị trí 99 lên vị trí 86, được xếp vào  nhóm các nước phát triển Chính phủ điện tử ở mức cao và cao hơn chỉ số trung  bình thế giới.

Về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Mai Tiến Dũng cho biết, từ khi thành lập đến nay, Tổ công tác đã thực hiện 103 buổi làm việc với  24 bộ, cơ quan, 44 địa phương, 12 Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước; có 16  buổi làm việc với các cơ quan, Hiệp hội doanh nghiệp để đôn đốc, kiểm tra việc  thực hiện nhiệm vụ giao, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính  sách và những rào cản hành chính mà doanh nghiệp đang gặp phải để tham mưu  Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ biện pháp tháo gỡ. Trong đó, có 18 cuộc về việc  thực hiện nhiệm vụ giao; 11 cuộc về công tác hoàn thiện thể chế; 21 cuộc về cải  cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành và cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện  kinh doanh; 19 cuộc đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ về thực hiện mục tiêu tăng  trưởng; 10 cuộc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp; 14 cuộc về xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính; 08 cuộc đẩy  nhanh tiến độ xây dựng, trình các đề án trong CTCT...

Qua các cuộc kiểm tra, tinh thần, quan điểm, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng  Chính phủ được quán triệt, đôn đốc thực hiện; đưa các giải pháp, chỉ đạo của  Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành những kết quả cụ thể, đi vào cuộc sống.  Hoạt động của Tổ công tác của Thủ tướng đã có tác động lan tỏa mạnh mẽ, tạo áp  lực, thúc đẩy các bộ, cơ quan, địa phương quyết liệt, quyết tâm trong việc thực  hiện nhiệm vụ giao. Học tập sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ và kinh nghiệm  hoạt động của Tổ công tác, hầu hết các bộ, cơ quan địa phương đều thành lập Tổ công tác. Nhiều vấn đề tồn tại, bất cập, chậm được xử lý, giải quyết có liên quan  đến công tác chỉ đạo, điều hành của các bộ, cơ quan, địa phương được khắc phục,  chấn chỉnh kịp thời.

Kết quả thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao chuyển  biến rõ nét, ngày càng thực chất. Thời điểm đầu nhiệm kỳ (đầu năm 2016) - khi Tổ công tác chưa thành lập, nhiệm vụ quá hạn chiếm tới 25,2%. Đến nay, số nhiệm vụ quá hạn chỉ còn 1,8% - giảm 23,4% so với năm 2016.

Đặc biệt, các nhiệm vụ giao tại các Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ được thực hiện nghiêm túc, cơ bản đúng tiến độ, trong năm có 473/479 nhiệm vụ giao đã hoàn thành; còn 6 nhiệm vụ chưa hoàn thành quá hạn. Tuy nhiên, một số nhiệm vụ chậm được thực hiện, như: Việc triển khai sử dụng dịch vụ thu phí đường  bộ theo hình thức điện tử không dừng, việc chuyển giao đại diện chủ sở hữu phần  vốn nhà nước...

Các đề án trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư được trình bảo đảm  đúng tiến độ, không chậm nợ. Trong năm, đã trình 43/43 đề án - đạt 100%. - Trong năm 2020, có tổng số 543 đề án trong CTCT của Chính phủ, Thủ  tướng Chính phủ; đến nay còn 51 đề án chưa trình, trong đó chỉ có 15 đề án nợ  đọng chiếm 2,8% - giảm 5,2% so với năm 2019 (8%); cả giai đoạn 2016-2020 có  2.462 đề án giao; như vậy đến nay, tỷ lệ nợ đọng là 0,6%, giảm 16,5% so với thời  điểm đầu nhiệm kỳ - năm 2016.

Công tác hoàn thiện thể chế tiếp tục được cải cách, đổi mới mạnh mẽ về tư  duy, phương pháp xây dựng văn bản quy định chi tiết theo hướng tích hợp, cắt giảm  tối đa số lượng đầu văn bản quy định chi tiết theo đúng chỉ đạo của Chính phủ để đơn giản hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tránh phát sinh thêm thủ tục  hành chính, giảm chồng chéo, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá  trình tra cứu và thực thi. 

Từ 49 văn bản quy định chi tiết Luật có hiệu lực từ 01/01/2021 theo phân  công, đến nay, các bộ đã có phương án tích hợp còn 28 văn bản - giảm 21 văn bản  so với phân công. Trong đó, Bộ LĐTBXH đã chủ động, tích cực tích hợp từ 14  Nghị định còn 4; Bộ KHĐT đã tích hợp từ 12 Nghị định còn 5. Đến nay, đã ban  hành 03/28 văn bản; đã trình 23/28 văn bản; còn 02/28 văn bản chưa trình.

Số văn bản quy định chi tiết nợ đọng, chậm ban hành giảm thấp nhất từ trước đến nay. Trong đó, năm 2017 - là năm đầu tiên không nợ văn bản quy chi  tiết thuộc thẩm quyền Chính phủ. Đến thời điểm hiện nay chỉ còn nợ 6 văn bản;  giảm mạnh so với số lượng văn bản nợ đọng cuối nhiệm kỳ khóa XII (58 văn bản)  và nhiệm kỳ khóa XIII (39 văn bản).

Kênh tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân tiếp tục phát huy  hiệu quả. Từ ngày 09/12/2019, Hệ thống tiếp nhận, xử lý, trả lời phản ánh, kiến  nghị của người dân, doanh nghiệp được tích hợp vào Cổng Dịch vụ công quốc gia.  Đến nay, Hệ thống này đã tiếp nhận 4.713 kiến nghị (trong tổng số hơn 9,6 nghìn  phản ánh, kiến nghị trên Cổng Dịch vụ công quốc gia), trong đó có 1.914 kiến nghị thuộc phạm vi xem xét, xử lý; đã chuyển xử lý 1.327 kiến nghị, đến nay có 1.119  kiến nghị đã được xử lý; còn 208 kiến nghị đang được bổ sung hồ sơ.

 Về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, trên cơ sở các kiến nghị của Tổ công tác, giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ,  Thủ tướng Chính phủ đã giao các bộ, cơ quan, địa phương triển khai thực hiện hơn  300 nhiệm vụ, trong đó, Chính phủ yêu cầu rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung 56 văn bản, đến nay, 55/56 văn bản đã được ban hành, có hiệu lực.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan và địa phương tập trung, triển khai nghiêm túc, hiệu quả chỉ đạo của Chính phủ,  Thủ tướng Chính phủ tại các Nghị định 09/2019/NĐ-CP, số 45/2020/NĐ-CP, số  09/NĐ-CP; các Nghị quyết số 68/NQ-CP, số 02/NQ-CP; Quyết định số  28/2018/QĐ-TTg về cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh  doanh thuận lợi gắn với xây dựng Chính phủ điện tử.

Có giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản;  quyết tâm không để nợ đọng văn bản quy định chi tiết, các đề án sang năm sau. c) Bảo đảm lồng ghép, cắt giảm tối đa số lượng văn bản quy định chi tiết theo  đúng chỉ đạo của Chính phủ. Bộ Tư pháp thực hiện việc theo dõi, đôn đốc, kiểm  tra, giám sát các bộ, ngành trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi  tiết, nhất là trong việc lồng ghép, cắt giảm tối đa văn bản quy định chi tiết Luật,  Pháp lệnh theo đúng chỉ đạo của Chính phủ. 

Giao Tổ công tác tiếp tục tập trung đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm  vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, đặc biệt là chuyên đề về công tác hoàn  thiện thể chế; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh; tình hình xây dựng  Chính phủ điện tử, cải cách thủ tục hành chính; việc thực hiện Chương trình công  tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; việc thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP, số 68/NĐ-CP và các Nghị quyết chuyên đề quan trọng, có phạm vi  tác động lớn, liên quan đến chủ trương cải cách và mục tiêu phát triển kinh tế - xã  hội, an sinh xã hội, đời sống người dân.

MỘT SỐ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM NĂM 2020

Nguồn:Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Nguồn: Trung tâm Thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

Nhóm phóng viên