Sợi bún khô – cảm xúc của văn hóa lúa nước

Quảng Nam được biết đến là quê hương của nhiều món ăn ngon, dân dã, thể hiện nét đẹp của con người xứ Quảng. Giản dị, yêu những gì mộc mạc và trân trọng nguồn cội điều có được thể hiện rõ nét trong nền văn hóa ẩm thực xứ Quảng.

tac-gia-tai-lo-bun-anh-duong-van-tri-1765422612.jpg

Trên khắp mảnh đất Quảng Nam luôn hiện hữu những món ăn ngon mang đủ phong vị và màu sắc được chế biến đơn giản hoặc công phu từ nguyên liệu lúa gạo là chính, lúa gạo là nguồn nguyên liệu đại diện cho người dân sống với nền văn minh lúa nước.

Bún khô xứ Quảng mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước, từ lâu đã trở thành một trong những món ăn quen thuộc của người dân nơi đây và hiện nay đã tiêu thụ khắp cả nước… Sản phẩm được chế biến thuần từ gạo trắng, không cần thêm hương liệu, từ đó tạo nên món ăn dân dã vô cùng ngon miệng, không chỉ chinh phục được trái tim của người dân xứ Quảng mà còn đang theo chân người dân trong làng đi làm ăn ở các địa phương khác và ngày càng phổ

Bún khô được sản xuất từ những hạt gạo trắng trong kết hợp với dây chuyền sản xuất hiện đại, khép kín. Sợi bún mang màu trắng trong đặc trưng của gạo, nấu lên có hương vị đậm đà, phù hợp dùng trong tất cả các món ăn truyền thống cũng như hiện đại của Việt Nam.biến. Sợi bún nhỏ, tròn, dễ ăn hơn phở và bánh cuốn nhưng bún giống cơm ăn nhiều không bị ngán. Có nhiều cách chế biến bún khác nhau theo vùng miền khác nhau người dân, món bún trở thành thương hiệu nổi tiếng khó lẫn giữa các vùng

Bún khô xứ Quảng – chất lượng làm nên thương hiệu

Trắng thơm, mát mịn, mềm dẻo lại giòn là những đặc điểm của sợi bún khô xú Quảng. Điều này thể hiện ngay từ khâu đầu tiên là chọn chất liệu làm bún. Gạo làm bún phải là thứ gạo tẻ dẻo cơm (gạo mùa), rồi đem vo, đãi sạch và ngâm nước. Nước sạch là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định màu và chất lượng của sợi bún. Mùa hè thì gạo được ngâm già nửa buổi. Mùa đông thì ngâm non một ngày. Gạo ngâm xong, đem xóc sạch bằng nước lã, rồi cho vào cối xay nhuyễn với nước để tạo thành thứ bột gạo dẻo, nhuyễn và mịn. Thuở trước, dân làng thường dùng cối đá xay tay để xay, ngày nay nhờ sự can thiệp của máy móc nên khâu xay bột không còn mất nhiều thời gian nữa.

vo-anh-duong-van-tri-bia-phai-gioi-thieu-quy-trinh-san-xuat-bun-kho-1765422615.jpg

Công đoạn tiếp theo là ủ bột và chắt bỏ nước chua để đưa lên bàn ép xắt quả bột, rồi tiến hành nhào bột, đánh thành dung dịch lỏng và đưa qua màn lọc sạn. Những khối bột khô lại tiếp tục đưa vào máy đánh nhuyễn thành bột chín. Khi bột đạt tiêu chuẩn thì chạy vào dây chuyền tạo sợi. Bún ra khuôn sẽ chạy ngay vào thùng nước lạnh sạch để sợi bún nguội, không dính với nhau. Ở công đoạn này sẽ có người ngồi gỡ bún từ giá tạo sợi và đưa lên khay để bún chảy hết nước và tạo hình bún.

Làm bún đòi hỏi người thợ phải luôn tay, luôn chân và cần phải có một sức khỏe thật tốt. Vì thế, rất nhiều người không chịu được vất vả, phải bỏ nghề bún chuyển sang nghề khác. Thế nhưng vì lòng yêu nghề và tinh thần nhiệt huyết, để giữ ngọn lửa truyền thống thì còn rất nhiều người vẫn luôn ân cần, miệt mài sống với nghề làm bún.

Trong quá trình làm luôn sử dụng găng tay khi tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm, thường xuyên vệ sinh dụng cụ, khu vực sản xuất. Những quy định bắt buộc này đến nay đã được người dân xứ Quảng tự giác thực hiện và trở thành thói quen trong quá trình sản xuất bún. Cùng với đó, tất cả các khâu, từ ngâm gạo, xay, ủ bột đến chế biến, cho ra sản phẩm, bảo quản, vận chuyển đến người tiêu dùng đều được các hộ kinh doanh thực hiện trong điều kiện đảm bảo vệ sinh.

Làm giàu từ  nghề truyền thống

Với ý chí, nghị lực và khát vọng vươn lên làm giàu, qua hơn 20 năm gắn bó với nghề sản xuất bún, từ sản xuất thủ công sang sản xuất bằng dây chuyền công nghiệp, vợ chồng ông Lưu Tấn Tứ, ở thôn Việt Sơn, xã Đồng Dương, thành phố Đà Nẵng đã khẳng định nghề sản xuất bún đã giúp gia đình ông có cuộc sống khấm khá, trở thành tấm gương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi.

Sau những năm đầu khởi nghiệp chật vật với đủ khoản chi phí, vợ chồng anh Tứ bàn bạc, quyết định đầu tư máy móc, gắn bó  bằng nghề sản xuất bún truyền thống của gia đình.

Ngày mới lập nghiệp, vợ chồng anh Tứ chỉ sản xuất bún thủ công nên sản phẩm chỉ ở mức khoảng 50kg bún mỗi ngày. Qua 5 năm, nhờ siêng năng và có kinh nghiệm làm bún khô chất lượng nên sản phẩm bún của gia đình anh Tứ đã có thị trường tiêu thụ bền vững. Để từng bước đưa nghề bún phát triển mạnh mẽ hơn, anh Tứ  đầu tư dàn máy sản xuất bún công nghiệp gồm 2 máy xay bột, 1 dây chuyền ép bún, 1 máy vo gạo.

Nhờ chịu thương chịu khó, mạnh dạn chuyển đổi nghề nghiệp, làm giàu trên chính quê hương của mình, nghề sản xuất bún của vợ chồng anh Tứ ngày càng có chỗ đứng trên thị trường. Mỗi năm trừ chi phí, gia đình anh Được thu về trên 250 triệu đồng từ nghề sản xuất bún. Chỉ tay vào những mẻ bún trắng đẹp vừa mới ra lò, anh Tứ chia sẻ, trải qua 20 năm gắn bó với nghề làm bún, vợ chồng tôi đã trả được hết nguồn vốn vay ban đầu để đầu tư máy móc thiết bị làm bún công nghiệp. Cũng từ cái nghề này mà tôi xây được căn nhà khang trang và nuôi 2 con ăn học đàng hoàng.

Tại thôn Hiền Châu, xã Bình Lãnh (nay là xã Đồng Dương) nhờ có kỹ thuật làm bún chuyên nghiệp cộng với máy móc hiện đại, sản lượng bún mỗi ngày của gia đình ông Dương Văn Trí đã tăng lên hàng chục lần so với trước đây. Giờ đây, mỗi ngày vợ chồng ông Trí tiêu thụ hơn 250 kg gạo, với tỷ lệ 70%, mỗi ngày lò bún ông Trí sản xuất từ 150 – 170 kg bún khô, với giá bán  20.000 đồng/kg bún khô. Để có được những mẻ bún trắng đẹp, sợi bún mịn, thơm, mềm, ngon, lâu thiu, khâu chọn gạo được anh Trí  chú trọng nhất.

Anh Trí  bày tỏ, xác định bún là loại thực phẩm được sử dụng thường xuyên và rộng rãi ở nhiều nơi nên gia đình tôi luôn đặt tiêu chí chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm lên hàng đầu để giữ chữ tín với khách hàng. Nơi sản xuất bún của gia đình luôn được giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, thoáng mát. Từ nguyên liệu đến các khâu chế biến đều đảm bảo vệ sinh.

Trong thời đại công nghệ, việc vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất bún khô sẽ làm giảm chi phí nhân lực nhưng chất lượng sản phẩm cao hơn, đáp ứng nhu cầu của người têu dùng, đặc biệt là chất lượng an toàn thực phẩm.