Theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó có hơn 2.000 làng nghề truyền thống được công nhận. Sự phân bố này không đồng đều, tập trung chủ yếu ở khu vực Đồng bằng sông Hồng. Ví dụ, riêng vùng Bắc Bộ chiếm đến 70% tổng số làng nghề cả nước. Hà Nội, với danh xưng "đất trăm nghề", hiện có hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có hàng trăm làng nghề truyền thống nổi tiếng như lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, sơn mài Hạ Thái, khảm trai Chuôn Ngọ…

lang-muoi-tuyet-diem-ve-dep-muoi-man-cua-phu-yen-2-1533-1754930910.jpg
Cánh đồng muối làng nghề làm muối Tuyết Diêm - Phú Yên. Ảnh: Crystal Bay

Về quy mô, đa số các làng nghề Việt Nam vẫn hoạt động theo mô hình hộ gia đình hoặc cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, với nguồn lực và vốn đầu tư còn mỏng. Mặc dù vậy, các làng nghề đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 3 triệu lao động nông thôn, góp phần quan trọng trong việc giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương.

Đóng góp của các làng nghề vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chưa có con số chính xác toàn diện, nhưng theo ước tính, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản xuất của ngành.

Một chuyên gia về làng nghề quốc tế đã từng nhận định: “Làng nghề Việt Nam không chỉ là một ngành kinh tế, mà còn là một bảo tàng sống, một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Mỗi sản phẩm đều ẩn chứa một câu chuyện, một lịch sử, một linh hồn dân tộc”. Nhận định này cho thấy tiềm năng vô cùng lớn của làng nghề Việt Nam không chỉ về mặt kinh tế mà còn về du lịch và văn hóa.

Tuy nhiên, trong dòng chảy của hội nhập kinh tế, những đặc điểm này cũng chính là những thách thức lớn. Các làng nghề đang phải đối mặt với nguy cơ mai một khi sản phẩm công nghiệp giá rẻ tràn vào thị trường, thiếu hụt nguồn nhân lực kế thừa, và những hạn chế về khả năng ứng dụng công nghệ số.

Để làng nghề truyền thống có thể phát triển bền vững, không chỉ là bảo tồn mà còn phải khai thác, sáng tạo để những giá trị văn hóa này trở thành lợi thế cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, các chương trình mục tiêu quốc gia như xây dựng nông thôn mới và Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã thực sự tạo ra những luồng gió mới. Việc lồng ghép các hoạt động phát triển làng nghề vào các chương trình này đã tạo ra sự kích cầu mạnh mẽ, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường tiêu thụ. OCOP đã thúc đẩy các sản phẩm làng nghề không chỉ đạt các tiêu chuẩn chất lượng cao mà còn mang theo câu chuyện văn hóa đặc trưng, tạo nên sự khác biệt.

dien-dan-1754931650.jpg
Toàn cảnh Diễn đàn đàn Cấp cao liên khu vực về mô hình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) vào tháng 7/2025. Ảnh: VnEconomy

Chính nhờ những nỗ lực này, sản phẩm làng nghề đã không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn trở thành một kênh quảng bá văn hóa hiệu quả ra thế giới. Mỗi sản phẩm thủ công tinh xảo được xuất khẩu không chỉ mang về nguồn ngoại tệ lớn, mà còn là một "sứ giả" văn hóa, giới thiệu tinh hoa và bản sắc Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

Đặc biệt, thời gian gần đây, Trung ương đã ban hành bốn nghị quyết mang tính chiến lược, tạo nên một đòn bẩy mạnh mẽ cho một kỷ nguyên phát triển mới. Đó là các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, về khoa học công nghệ, về hội nhập quốc tế và về đổi mới chính sách. 

Các nghị quyết cụ thể như Nghị quyết 68, Nghị quyết 57, Nghị quyết 66 và Nghị quyết 69 đã tạo ra những trợ lực vô cùng lớn, cởi trói các chính sách và thủ tục hành chính, giải phóng nguồn lực trong nhân dân. 

Đây chính là cơ hội vàng để các làng nghề phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, gắn liền với du lịch sinh thái, thu hút đầu tư và định hình một vị thế vững chắc trong bức tranh kinh tế vĩ mô của đất nước. Tất cả những yếu tố này tạo nên một bức tranh tươi sáng, mở ra một tương lai đầy tiềm năng cho các làng nghề truyền thống của Việt Nam.