Ngày 20/11 - Nhớ thương cô giáo và những bài văn

Viết về cô giáo Hồ Trường Ngọc Diệp, cô Hồ Trường Ngọc Diệp là em của cô giáo Hồ Trường Kim Chi, chồng là Sĩ quan Không quân, là em dâu của cô Nguyễn Thị Nguyệt, dạy môn Văn năm đệ Ngũ……

258824474-1536689196713792-8071407211890398726-n-1637376671.jpg

Hôm rồi gặp lại người bạn học thời trung học, dưới mái trường Thoại Ngọc Hầu Long Xuyên, anh Đoàn Cao Văn, giảng viên trường Cao Đẳng cộng đồng Đồng Tháp, vừa nghĩ hưu, hai đứa lai rai tâm sự, ôn lại những kỹ niệm xa xưa… Đoàn Cao Văn hỏi: mầy còn nhớ cô Hồ Trường Ngọc Diệp, dạy môn Văn, năm Đệ Lục C không? – Nhớ chứ!

Văn kể: Năm ấy, môn Văn tao học khá, nhất là các bài Luận văn, thường được cô chọn và đứng lên đọc cho cả lớp nghe. Lần nọ, bài Luận chưa kịp làm, dự định khi vào lớp, khi cô đang giảng bài thì cố gắng làm ngay, không ngờ ngay đầu tiết học, cô gọi ngay lên đọc bài Luận. Xé vội 2 tờ giấy ở ruột quyển tập còn trắng, cũng bước lên, cầm giấy đọc bài Luận, dù hơi ngập ngừng… Bài Luận nầy chắc chắn là không đạt rồi, xong cô bảo đưa bài cho cô xem và cho điểm, đưa cho cô 2 tờ giấy trắng, cô cười cười chấm cho 14/20 điểm, mấy mươi năm từng đứng trên bục giảng… Đối với mình đây là kỹ niệm không phai…

Tôi cho Văn biết, hôm rồi Trương Quang Thưởng ở Mỹ về thăm nhà, có họp mặt bạn bè, hôm đó có thầy Đặng Trung Thành, cô Lương Phi Phụng… cô Phụng (dạy môn Sử - Địa năm đệ Lục) cho biết cô Hồ Trường Ngọc Diệp giờ sống ở Cần Thơ, cuộc sống hình như khó khăn, mỗi khi Trường trung học Thoại Ngọc Hầu có các lễ kỷ niệm, họp mặt truyền thống đều có mời, nhưng không thấy cô về dự… Với tôi, cô Hồ Trường Ngọc Diệp cũng là ấn tượng không phai… Môn Văn thời ấy chia ra: Kim văn, Cổ văn, Luận văn và Hán Việt, hôm học tiết Hán Việt, vào lớp cô hỏi: “Hôm nay học môn gì hở các em?”. Cả lớp nhao nhao: Hán cô, Hán cô… Cô lắc đầu, cười… thật là nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò mà!

Tiết Kim văn cô cho học 2 truyện ngắn: Lỡ quá ga của Khái Hưng và Câu chuyện trên tàu thuỷ của Thế Lữ. Lỡ quá ga: lược kể: Trên chuyến xe lửa, toa xe còn trống chỗ, có 2 mẹ con nhà quê ngồi bệt xuống sàn toa, mặc dù các khách đi chung bảo lên trên mà ngồi. Xe lửa chạy, rồi ghé lại ở các ga… nhưng khi xe vừa chạy khỏi ga Cầu guột, thì người đàn bà hỏi và hốt hoảng cho biết là lỡ ga rồi, một hai đòi nhảy xuống. Các hành khách xúm lại nắm không cho nhảy… Thầy soát vé đến nghe chuyện mắng mỏ thêm một chập, rồi bảo “Thôi vào trong kia mà ngồi, rồi đến ga Đồng Văn, chờ chuyến xe ngược, người ta sẽ cho về Cầu guột lại”. Đến ga Đồng Văn, thầy soát vé thân dắt người đàn bà xuống ga. Một lát sau, thầy lên toa bảo mọi người: “Mụ ta không chờ chuyến xe ngược, đòi ra đón ô tô hàng…”. Trên xe lửa bắt đầu bàn tán về chuyện nầy, nhiều người cho là người đàn bà nầy thật dai dột, suýt nữa thì chết… Một người đàn ông vận quần áo nâu, từ nãy vẫn ngồi im bỗng nói chen vào: “Bác ấy chả dại đâu các bà ạ! Lần nầy là lần thứ ba Sở xe lửa mắc mưu bác ấy. Bác ấy đi đến ga Đồng Văn, nhưng chỉ lấy vé đến ga Cầu guột thôi, để đỡ tốn 1 hào tiền tàu! Ai nấy ngơ ngác nhìn nhau, rồi một người hỏi: “Sao bác biết ”. Người kia ung dung đáp: “Bác ấy người làng tôi, chỉ cách ga Đồng Văn có một quảng đường”.

Câu chuyên trên tàu thuỷ lược kể: Hai Nhiêu quê Ninh Bình, là một kẻ cắp rất giỏi, thông minh, thiệp nhã lại “quân tử” nữa, đặc biệt không lấy cắp của người nghèo. Ăn cắp đối với Hai Nhiêu không phải là nghề kiếm cơm, đó chỉ là một cách giải trí của tay chơi, hay có thể nói là một “nghệ thuật”, bởi việc lấy cắp càng khó, càng nguy hiểm Hai Nhiêu càng thích, bác ta khi đã “nhắm” món nào, thì món ấy phải lắm tiền, mà đã cố ý lấy tất không bao giờ hụt.

Lần ấy, đang lúc lập mưu để ăn to, bỗng có tin báo vợ Hai Nhiêu ốm nặng phải về ngay. Hai Nhiêu đành đi vay tạm dăm đồng để thuốc thang cho vợ. Hai Nhiêu xuống tàu thuỷ xuôi Nam, khi xuống tàu là đi xem xét mọi nơi trên tàu, xem có thể ăn được hàng kiếm thêm ít tiền chăng, nhưng trên tàu hành khách thì đông phần nhiều là buôn bán nhỏ, những phu mỏ ốm trở về… Hai Nhiêu tìm chổ ngã lưng và ngủ… Bỗng tiếng ồn ào nổi lên làm Hai Nhiêu phải mở mắt thì là người mại bản (người soát vé tàu) xỉa xói 1 người nhà quê thiếu 1 hào tiền tàu, và nhất định đuổi người nhà quê nầy xuống, dù hết mực năn nỉ là đến bến sẽ mượn tiền trả. Hai Nhiêu cằn nhằn: Đến bến thì người ta trả, không thì giữ lấy hành lý, người ta chuộc lại chứ gì! Tên Khách lườm: “Cái nị không có piết! Hằng lý nó có cái lày thì lấy làm gì?” Rõ là người nhà quê chỉ có cái lồng gà rỗng, với trong đó một gói mo chừng đựng cơm nắm, hai cái nồi đất mới, miệng bưng bằng giấy nhật trình.

Người nhà quê năn nỉ tên Khách không được, đâm qua cầu cứu Hai Nhiêu, bực mình và thấy mình cũng là anh hùng kẻ cả, anh gạt anh Khách ra, rút một tờ giấy bạc quăng vào mặt nó, hách dịch nói: “Bán 1 vé về Nam Định, giữ lấy 1 hào của người nầy nữa, rồi thối lại tiền”. Xong, người nhà quê đon đả cám ơn, đi xin trầu của mấy bà mời Hai Nhiêu ăn, mượn điếu cày mang lại mời Hai Nhiêu hút… Rồi người nhà quê đem cái lồng gà đến để bên như ý gởi Hai Nhiêu coi hộ và đi ra đằng sau lái tàu… Sau đó đảo mắt tìm thì thấy người ấy nằm kế đấy và đã ngủ một giấc bình yên. Sáng hôm sau, tàu cập bến, chuyện hôm qua Hai Nhiêu cũng quên, nhưng khi vừa lên bến thì người nhà quê tay xách lòng gà rỗng đứng chờ và mời bác lên xơi với hắn một chén nước để cám ơn. – Đến đây thì chúng tôi đã có nhiều người quen, chúng tôi sẽ trả lại số tiền ông cho giật hôm qua, với lại xin ông để chúng tôi đền đáp lại ông một chút.

Hai Nhiêu nóng lòng về Ninh Bình ngay, nhưng từ chối thế nào người nhà quê cũng không nghe…. Cứ thế câu lễ phép đi, câu lễ phép hơn đáp lại, khi hai người bước đến cửa hàng cơm, thì người nhà quê: “Bà hàng đâu, bà dọn cho tôi một mâm rượu thực tươm tất ấy nhé, mà làm mau lên, ông quý khách của tôi vội. Hai Nhiêu ngạc nhiên, bụng bảo dạ: Có lẽ nào một người đi tàu thiếu tiền mà lại dám tiêu rộng rãi đến thế, hay là họ định nhờ khéo mình thêm một bữa cơm nữa đây? Nhưng thấy bà hàng cơm ra chiều quen thuộc, Hai Nhiêu cũng yên bụng, bỗng anh ta gọi một người nhà quê khác đứng chờ đó, đưa cho hắn cái lồng gà đựng gói mo cau và hai cái nồi đất bả : “Chú Ba về làng trước, đưa cái nầy cho bu nó cất đi, tôi còn bận một chút, xong về ngay… Cơm rượu xong, người nhà quê mở hầu bao ra chi tiền tiền cơm, Hai Nhiêu không hiểu ra sao, toan hỏi nhưng sợ bất tiện, đến lúc đưa chân ra Ga, người kia nhất định nài lấy vé cho mình, Hai Nhiêu càng kinh ngạc. Người nhà quê thấy vậy mĩm cười và thong thả nói: Thưa ông, ông lấy làm lạ cũng phải, nhưng việc thiếu tiền hôm qua, chỉ là một mẹo đấy thôi. Tàu Chấn Dinh nầy có tiếng là lắm kẻ cắp, chúng tôi có tiền mang theo mà không làm thế, thì giữ sao được của mình?

- Vâng, nhưng tôi thấy ông mang có hai, ba đồng bạc thì tội gì phải làm thế?

- Nếu hai, ba đồng thì cất đâu chả được, đây tôi lại dồn một số tiền lớn về để mua cái phó lý cho tôi, lo cưới vợ cho thằng cháu, lo khao, lo vọng …

- Ờ, thế ra là …

- Vâng, tôi về chuyến nầy mang ngót 500 bạc, mà để kẻ cắp biết thì tôi có khi cũng không về được tới nhà.

- Nhưng… ông giắt trong mình thì ….

- Chết, giắt trong mình nguy hiểm lắm, tôi bỏ vào một cái nồi đất trong cái lồng chú nó đem về ban nãy đó. Rồi vừa cười, người nhà quê vừa tiếp: Cái lồng gà với mấy cái nồi đất của một anh nhà quê không có lấy một hào để trả tiền tàu… ông tính còn kẻ cắp nào để ý đến nữa, nếu tôi không nghĩ đến kế ấy thì ngủ yên sao được… mà không thế thì làm sao tôi gặp được người quí hoá như ông .

Xe lửa về đến ga, Hai Nhiêu vẫn còn choáng người vì tiếc của, bác ta tìm hết tiếng độc địa để rủa cái trí khôn ngu ngốc của mình và tự hứa lần sau đi tàu, không nên coi thường những cái lồng gà trong có đựng hai cái nồi đất.

Hai bài văn hay, Cô giảng dạy đặc điểm của 2 bài văn này là: Câu chuyện diễn tiến bình thường, nhưng kết cục lại bất ngờ. Sau đó cô cho làm Luận văn: Em hãy kể lại một câu chuyện diễn biến bình thường, kết cục bất ngờ… Tôi lại nhớ câu chuyện mua bán tắc kè thời thập niên 1940 -1950, mẹ tôi có kể, tôi nghe lỏm và tôi làm bài Luận văn với câu chuyện nầy.

Trong làng, một hôm có người đến đặt hàng mua tắc kè với một ít người khá giả nhất trong làng, giá tắc kè bình thường là 5 cắc/con, các người nầy đặt mua 7 cắc/con, số lượng lần đầu là vài ba trăm con, thế là lần giao nhận hàng đầu tiên thanh toán sòng phẳng, vui vẽ. Người mua hàng đặt hàng lần kế với số lương lớn vài ba ngàn con. Các người bán vừa thu lợi dễ dàng, nhưng lần nầy thì số tắc kè mua gom lại khó đủ số… gần đến ngày giao hàng, thì có mấy người đến chào bán tắc kè số lượng lớn, thế là chủ hàng nhập hàng ngay… nhưng người mua hàng không trở lại. Số tắc kè không biết phải làm gì, chúng đói cắn với nhau rồi chết dần, sau cùng phải thả chúng…

Nộp bài cho cô, cô bảo chuyện nầy cô cũng có nghe nói và nội dung bài Luận văn là được, hợp đề, diễn biến bình thường, kết cục bất ngờ… Tôi về kể lại cho mẹ tôi nghe nhờ câu chuyện mua bán tắc kè mà con làm được bài Luận văn và được cô khen. Đến nay, đã 50 năm tôi vẫn nhớ gương mặt của cô ngày nào… Kỷ niệm không phai. Tiết Hán Việt cô cho học bài: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực”. Nghĩa là “Cha sinh ra ta, mẹ nuôi ta. Thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, trời cao chẳng dứt”. (Công cha mẹ như trời cao không thể nào trả hết được). Trong lòng rất khoái chí, vì được học chữ Nho kia mà, mà nghĩa lại hay, về nhà đem bài ra học, cha mẹ nghe con học các bài như thế, trong bụng cũng thấy vui vui… Đặc biệt trong lớp có bạn Nguyễn Văn Đạt lại có biệt tài, ai thách bạn lấy cây bút máy hay cái bóp trong túi quần bạn nào, thì chỉ 1 cú va chạm nhẹ thì Đạt lấy được ngay, đến khi vào học, cần đến bút mới hay bị mất, thế là Đạt có biệt danh là Hai Nhiêu đến ngày nay, đôi khi nhắc Đạt có khi quên, nhưng nhắc Hai Nhiêu thì nhớ đến Đạt ngay, năm rồi chúng tôi có đi dự đám cưới con của Đạt Hai Nhiêu.

Khoảng năm 1985 – 1990 thời mở cửa, kinh tế thị trường, nhà nước cho phép cấp Xã, Phường thành lập Công ty cấp 4 mua bán đường dài, mua bán lòng vòng… Một số công ty trình độ yếu lại hám lời nên thường ôm hàng… Vay ngân hàng thì có 2 loại: trong kế hoạch thì lãi suất thấp, ngoài kế hoạch thì lãi cao (vay nóng), trúng phải lô hàng phải vay nóng thì xem như phá sản Tỉ như Công ty A khi bí quá nội bộ bàn với nhau , thế là chơi đòn Taikondo nhé! nghĩa là cho người đến 1 công ty B (gọi là con mồi), chào bán món hàng mà mình đang ôm… vài hôm sau lại có công ty C (do công ty A nhờ hoặc mướn) đến công ty B đặt mua số hàng đó… Con mồi ham lời đến công ty A ký mua xong, mời công ty C vừa đặt hàng đến ký bán lại, nhận tiền cọc… Xong xuôi chuyển tiền mua hết lô hàng, khi mua xong liên lạc với công ty C thì công ty nầy từ chối mua hàng lý do là không cần sử dụng nữa và chấp nhận mất tiền cọc. Công ty B ôm hận, rồi tìm cách gỡ gạc hoặc phá sản.

Quyển tiểu thuyết nổi tiếng và rất ăn khách: Nếu còn có ngày mai của nhà văn Sidney Sheldon (If tomorrow comes) cũng có chiêu nầy. Cô Tracy giả dạng một phu nhân quý tộc vào hiệu kim hoàn PRAND PARKER ở London mua 1 viên kim cương giá 100.000 đô la, ngày hôm sau trở lại đặt mua thêm 1 viên giống y để làm cặp bông tai và sẳn sàng mua viên kim cương sau giá 400.000 đô la, người quản lý ham lời, liên hệ các đồng nghiệp, rao vặt… sau cùng có người chào bán viên kim cương gia bảo, lý do chồng làm ăn thiếu vốn… viên kim cương được người quản lý mua lại với giá 250.000 đô la, theo tính toán anh ta còn lãi 150.000 đô la kia mà, nhưng hỡi ơi! sau cùng anh ta biết rằng viên kim cương anh bán giá 100.000 đô la, nay mình mua lại chính viên kim cương nầy giá 250.000 đô la. (Nếu còn có ngày mai – Sidney Sheldon – Nhà xuất bản Công An Nhân Dân trang 204 – 217).

Ngỡ rằng chuyện đã qua hoặc trong tiểu thuyết, không ngờ đòn Taikondo nầy hiện nay các thương buôn gian giảo Trung quốc đang áp dụng tại Việt Nam và rất có hiệu quả như việc mua lá khoai lang, mua lá điều non, mua móng trâu, mua rễ cây tiêu … gần nhất là bông cây thanh long. Chúng đặt mua hàng tại 1 nơi với giá cao, sau đó chúng mua hàng các nơi chung quanh giá thấp hơn, sau vài chuyến hàng nho nhỏ, chúng gom hàng nhiều nơi khác giao lại cho nơi trung tâm, thế là nơi đây ôm hàng, còn bọn chúng lấy được số lãi lớn chuồn đi nơi khác và bày ra chiêu khác, cứ thế mà làm… Họ vừa thu lợi, vừa phá hoại kinh tế của chúng ta, tiếc thay việc quản lý hành chính của chính quyền địa phương quá lỏng lẽo, cộng thêm sự hiểu biết ít ỏi của các thương nhân người Việt, cộng với lòng tham nên dễ bị lừa….

Những bài văn học ở trường cách nay 50 năm vẫn xôn xao kỷ niệm trong lòng, Nhớ những Thầy, Cô năm xưa, những bài học trong trường và những bài học ngoài đời… Ôi!.. Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

 

Theo Chuyện quê