Năm 2002, Quân đội Mỹ mở cuộc chiến tranh tấn công chính quyền Taliaban ở Afghanistan. Đó chính là cuộc chiến mở màn chống Chủ nghĩa khủng bố theo tuyên truyền của nước Mỹ. Nhà văn Như Phong và tôi đã bay đến Pakistan để tìm cách đến Afghanistan viết về cuộc chiến đó. Đúng đêm không quân Mỹ tấn công thủ phủ Taliban ở Kabul thì chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà của người hồi giáo ở biên giới Pakistan và Afghanistan. Và 19 năm sau, Taliban chiến lại được Afghanistan. Cuộc hiến chống Taliban của Mỹ hoàn toàn thất bại. Nhân sự kiện này, tôi đưa lại một số đoạn trong sổ tay ghi chép của tôi về chuyến đi làm báo khó quên ấy.
Phần 2: Bay vào chiến địa
Chúng tôi bay trên một chuyến bay của Hãng hàng không Pakistan từ Bangkok đi Lahore, thành phố miền trung Pakistan vào lúc 8 giờ tối. Từ một tuần trước, tất cả các Hãng hàng không nước ngoài đã hủy bỏ mọi chuyến bay đến Pakistan. Hầu hết các sứ quán nước ngoài ở Pakistan cũng đã nhận lệnh di tản. Họ đều biết cuộc chiến tranh đã đến rất gần. Tàu chiến của quân đội Mỹ đã trực chiến ở những vùng biển áp sát Pakistan và một số vùng lân cận và sẵn sàng phóng tên lửa vào những mục tiêu có dấu hiệu nghi ngờ. Nước Mỹ đang đau đớn, đang bị xỉ nhục, đang hừng hực máu trả thù và sẵn sàng làm tất cả để nguôi đi một phần nào những cảm giác ê chề đó.
Hình như an ninh Mỹ đã đặt những trạm kiểm soát của mình ở tất cả những cửa khẩu nước ngoài vào Pakistan. Chưa bao giờ hành khách bị kiểm tra kỹ như vậy ở sân bay. Nhân viên an ninh ở sân bay Bangkok đông hơn những lần trước tôi qua. Tất cả hành khách trên chuyến bay đó đều bị kiểm soát hết sức kỹ lưỡng. Nhân viên an ninh lần từng cổ áo, dây lưng, đế giày, đũng quần, các góc và đáy vali, các hộp kem đánh răng, máy vi tính xách tay, máy ảnh, bao thuốc lá…và được hỏi cặn kẽ về nhân thân và mục đích chuyến bay.
Trên chuyến bay tối đó, chỉ có nhà báo Như Phong và tôi là người nước ngoài. Còn lại chỉ là những người Hồi giáo Pakistan. Đây là chuyến bay gây cho tôi một cảm giác mạnh nhất từ trước đến nay. “ Một chuyến bay Hồi giáo” – Tôi đã gọi chuyến bay ấy như thế. Trước đó, tôi không biết gì về người Hồi giáo. Moinudin là người Hồi giáo đầu tiên tôi tiếp xúc. Nhưng đó là một người Hồi giáo làm ở Bộ Ngoại giao Pakistan. Ông mang cho tôi một cảm giác đơn giản. Còn những người Hồi giáo trên chuyến bay đó quả là rất “Hồi giáo” với râu tóc, quần áo và nói một thứ ngôn ngữ tôi không hề quen với một từ vựng nào cả. Hơn nữa, một không khí của chiến tranh và những bí ẩn từ những cái nhìn và của những người Hồi giáo xa lạ trên chuyến bay bủa vây và kích động cảm xúc của tôi.
Máy bay cất cánh muộn hơn so với giờ ghi trên vé. Chắc là vì việc kiểm tra của an ninh sân bay Bangkok quá lâu. Có những hành khách Hồi giáo cầu nguyện. Tôi không dám quan sát họ. Nhưng chỉ nhìn lướt qua họ như một sự vô tình. Và tôi phát hiện ra sự thành kính và bí ẩn trên gương mặt họ. Chính điều này làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nhìn ra cửa sổ máy bay và chỉ thấy một bầu trời tối đen. Cảnh ấy không có gì xa lạ với tôi trong những chuyến bay đêm. Vì những chuyến bay của tôi đi Mỹ và Châu Âu thường bay đêm. Nhưng bầu trời đêm lúc này dựng lên một thế giới khác. Bởi nơi tôi đến là một vùng đất mà có thể ngay đêm đó một cuộc chiến tranh sẽ bùng nổ. Đó cũng là chuyến bay tôi không lấy sách ra đọc. Tôi muốn im lặng quan sát và cảm nhận không khí của một chuyến bay đặc biệt ở giữa những hành khách đặc biệt.
Từ khi bước vào phòng đợi, tôi đã cố tình chào hỏi với một vài hành khách Hồi giáo và mỉm cười với họ. Nhưng có lẽ sự bắt quen và nụ cười của tôi là những thứ xa lạ và khó giải thích với các hành khách Hồi giáo nên họ chỉ nhìn tôi hoặc miễn cưỡng gật đầu chào lại hoặc không nói gì. Một số người khách quan sát chúng tôi với đầy vẻ cảnh giác. Có lẽ họ tự hỏi vì sao hai kẻ xa lạ này lại bay đến vùng đất mà mọi thứ khủng khiếp đang sắp ập tới. Từ sân bay Bangkok, nhà báo Như Phong bắt đầu bỏ cuốn Kinh Koran ra khỏi túi xách và ôm khư khư trên tay. Khi Như Phong tìm được ghế ngồi của mình trên máy bay, anh đã chỉ chỉ tay vào cuốn Kinh như giới thiệu với một hành khách Hồi giáo ở ghế bên cạnh. Ông ta gật gật đầu và nói một câu gì đó rồi cầm cuốn Kinh lên hôn. Như Phong bèn ôm lấy vai ông ta với những cử chỉ đầy cảm thông và chia sẻ. Nhưng chỉ ngay sau đó, vị hành khách Hồi giáo lại rơi vào im lặng cho đến hết cuộc hành trình.
Có lẽ chặng đường bay dài nhất trong tất cả các chuyến bay quốc tế mà tôi đã tham dự là chuyến bay từ Bangkok đi Lahore. Tôi đã từng xem phim và thấy những cảnh máy bay chở các nhóm biệt kích hoặc tình báo bay trong đêm lặng lẽ đến một vùng rừng núi nào đó để thả các nhóm công tác đặc biệt đó xuống. Một sự căng thẳng và nặng nề kéo dài suốt chặng bay. Và trong chuyến bay đêm ấy, tôi đã mang đầy đủ cảm giác đó. Bởi có thể vô tình một quả tên lửa từ một tàu chiến nào đó của quân đội Mỹ sẽ lao thẳng vào chiếc máy bay có tôi trong đó. Đơn giản chỉ vậy. Và sau đó, tất cả sẽ được xóa sạch. Nếu như thế, đố ai tìm thấy tôi ở đâu. Tuy có lúc ý nghĩ đó vụt hiện trong óc tôi trong tiếng ù ù đều đặn của động cơ máy bay nhưng tôi không hề thấy sợ hãi hay ân hận về việc quyết định chuyến đi này. Thay vào đó là một cảm giác lạ kỳ đầy phấn khích. Tôi thấy cuộc sống thật kỳ vĩ. Nó chứa trong nó tất cả những câu chuyện mà ngồi một mình chúng ta cũng không thể sáng tạo hay bịa đặt được.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay thành phố Lahore khoảng gần nửa đêm. Hoàn toàn khác với cảnh nhộn nghịp thường thấy ở các sân bay là một không khí vắng vẻ đầy căng thẳng . Sân bay Bangkok ngập tràn các cửa hàng miễn thuế và rực ữo ánh đèn còn sân bay Lahore đầy cảnh sát và quân đội. Một số boongke cát được dựng ngay trong sân bay. Những khẩu súng máy với những băng đạn lắp sẵn. Chúng tôi như lạc vào một ổ phục kích. Một đợt khám xét mới bắt đầu. Quanh chúng tôi có đến một chục nhân viên cảnh sát và quân đội với vẻ mặt căng thẳng và tay lăm lăm súng tiểu liên. Khi vừa mở túi xách của nhà báo Như Phong thì cuốn Kinh Koran hiện ra. Viên cảnh sát súng ông đầy người vội nâng cuốn Kinh bằng hai tay và cúi xuống hôn như một nghi lễ đầy vẻ sùng tín. Rồi anh ta đặt cẩn thận cuốn Kinh sang một bên và bắt đầu lục soát hành lý của chúng tôi. Trước khi để cho chúng tôi nhập cảnh, viên cảnh sát nói với chúng tôi không được để cuốn Kinh trong túi xách như thế mà phải ôm vào ngực. Viên cảnh sát vừa nói vừa làm động tác như hướng dẫn chúng tôi.
Lahore chỉ là nơi chúng tôi nhập cảnh và chúng tôi sẽ trở lại sân bay này vào sáng mai để bay đi Islamabad, thủ đô Pakistan. Vì không có khách sạn ở sân bay, chúng tôi phải vào thành phố nghỉ qua đêm. Khi chúng tôi ra khỏi phòng khám xét và làm thủ tục thì sân bay Lahore như chẳng còn hành khách nào nữa. Chỉ còn lại hai ba chiếc taxi tróc sơn nham nhở như cố gắng đợi những hành khách cuối cùng là chúng tôi. Những người lái taxi quây lấy chúng tôi và hỏi chúng tôi bằng một thứ tiếng Anh rất khó nghe. Cuối cùng, một chiếc taxi với hai tài xế đưa chúng tôi rời sân bay. Đó là một chiếc taxi bẩn thỉu, ọp ẹp và đầy mùi thuốc lá. Họ nói sẽ đưa chúng tôi đến một khách sạn gần đó. Họ dựng ngọn tay cái lên làm hiệu cho chúng tôi hiểu rằng đó là một khách sạn tuyệt vời. Chúng tôi chỉ còn biết đi theo họ. Chúng tôi không biết gì về thành phố này. Bởi thế, chúng tôi không có một lựa chọn nào khác.
Lahore tối tăm vì quá ít đèn đường. Chiếc xe chạy loanh quanh qua nhiều khu phố vắng lặng rồi cuối cùng đưa chúng tôi vào một ngõ sâu và dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng xấu xí và cũ kỹ. Đó chính là một khách sạn ghi rõ bên ngoài : Khách sạn quốc tế ba sao. Những người lái xe và một nhân viên khách sạn bàn tán gì đó rất lâu. Tôi tranh thủ đi loanh quanh trước cửa khách sạn để quan sát nơi vừa đến. Biết rằng chúng tôi sẽ có một đêm khó khăn trong cái khách sạn ba sao kỳ dị kia nhưng tôi thấy vô cùng cảm hứng. Với tôi, một đêm ngủ ở khách sạn năm sao ở Brisbain, Australia năm 1992 làm cho tôi luôn mang cảm giác quần áo mình rất bẩn và cái khách sạn ba sao ở Lahore mang cảm giác cái gì ở khách sạn này cũng làm cho tôi dính bẩn đều khích thích tính tò mò của tôi như nhau. Trong những chuyến đi như thế này, sự khám phá những điều mới mẻ, khác lạ là hứng thú chủ đạo trong tôi.
Sau khi bàn bạc khá lâu với nhau, người lái xe taxi nói chúng tôi sẽ ở chung một phòng và giá mỗi chúng tôi phải trả là 70 USD. Nếu lúc đó, họ bắt chúng tôi phải trả 200 USD mỗi người thì chúng tôi cũng phải trả. Vì chúng tôi biết đi đâu trong cái thành phố xa lạ, vắng vẻ, khuya khoắt và không một người quen này. Trước khi bỏ chúng tôi lại với cái khách sạn ba sao kỳ dị này, người lái taxi hỏi chúng tôi có muốn họ đón chúng tôi ra sân bay vào năm giờ sáng mai không. Đương nhiên chúng tôi phải gật đầu đồng ý. Thực sự, cho đến lúc đó, người mà chúng tôi cần bám chặt ở cái chốn xa lạ này lại chính là người lái xe taxi. Ông ta bỗng trở thành người thân của chúng tôi. Tôi lấy thuốc lá mời ông. Ông bắt tay tôi rất chặt và dặn chúng tôi không được đi ra khỏi khách sạn trong đêm. Ông ta đưa tay lên làm động tác soẹt ngang cổ họng và lè lưỡi ngẹo đầu sang một bên. Tôi không nghĩ có chuyện gì xấu xảy ra. Nhưng động tác của người lái taxi đã đẩy không khí u uẩn và bí hiểm của cái khách sạn ba sao ấy vào sâu hơn bóng tối của đêm đang phủ quanh nó.
Khi nhận phòng, tôi thực sự choáng váng. Một căn phòng tồi tệ mà tôi chưa gặp ở bất cứ loại khách sạn nào. Những chiếc gối màu tối, ga giường nhợt nhạt, tường loang lổ vết ố, cửa kính bị vỡ, một chiếc quạt trần loạng choạng quay, bồn rửa mặt cũ kỹ và xám…Nhưng chúng tôi vẫn phải chuẩn bị cho giấc ngủ sau chặng bay không dài nhưng nhiều ám ảnh. Lúc đó, chúng tôi mới sực nhớ đồ dùng cá nhân như khăn tắm, bàn chải và thuốc đánh răng đã để tất cả trong va li gửi ở sân bay quá cảnh. Chúng tôi hỏi nhân viên khách sạn nếu họ có thể mua giúp chúng tôi bàn chải và thuốc đánh răng không. Chúng tôi rất cần những thứ đó vì sau chặng bay, miệng chúng tôi cảm như khó thở. Người nhân viên khách sạn gật đầu và bỏ đi. Nửa tiếng sau ông mang về cho chúng tôi hai chiếc bàn chải và một hộp kem. Hai chiếc bàn chải không bao bì và hình như đã được dùng. Nhưng dù mang cảm giác ghê ghê thì chúng tôi vẫn phải xử dụng. Trước khi đánh răng, chúng tôi phải đánh sạch chiếc bàn chải bằng một cục xã phòng trong toilet nhỏ như một chiếc kẹo ngậm.
Chúng tôi không ngủ được dù rất mệt. Nhà báo Như Phong quyết định tắt quạt trần vì ông cảm thấy nếu nó chỉ quay thêm một chút nữa thì mỗi cánh sẽ văng ra một nơi. Bởi thế caqưn phòng càng thêm ngột ngạt và bầy muỗi tràn vào. Tôi ngồi thu lu ở góc giường hút thuốc và quan sát một góc khách sạn qua cửa sổ. Đêm ở Lahore vắng lặng lạ thường. Lúc đó chúng tôi lại thấy cần tiếng gầm rú như điên như khùng của các loại xe máy ở Hà Nội. Và thi thoảng, một cái đầu tóc rối bù và giương mặt đầy râu của nhân viên bảo vệ khách sạn lại thò vào nhìn chúng tôi. Tôi hỏi anh ta có việc gì không. Anh ta nói với tôi một tràng tiếng mẹ đẻ của anh. Nhưng tôi không hiểu được gì. Nhà báo Như Phong để cả quần áo mặc từ Hà Nội mà nằm và ôm khư khư chiếc máy ảnh mà Báo ANTG mua cho chuyến đi của chúng tôi với giá ngày đó đã là 2.500 USD và chiếc vi tính xách tay. Nếu một trong hai thứ này mà bị mất thì chuyến đi của chúng tôi chẳng còn tác dụng gì nữa.
Một đêm mất ngủ đầy ấn tượng. Năm giờ sáng, chiếc taxi đã chở chúng tôi từ sân bay về khách sạn đã đến và đưa chúng tôi trở lại sân bay Lahore. Trên đường ra sân bay, người lái taxi hỏi tôi có phải là Hồi giáo không. Tôi trả lời tôi là một người Hồi giáo Việt Nam. Nhà báo Như Phong bèn lấy cuốn Kinh Koran đưa cho hai người lái taxi xem. Một người cầm lấy và cúi xuống hôn. Khi chia tay h ọ, dù đã bị bắt chẹt giá trong cả hai lượt đi, chúng tôi vẫn lấy một tờ 5 USD cho họ. Họ ôm lấy chúng tôi và nói : “ Cẩn thận nhé, người anh em. Thánh Ala phù hộ cho người anh em”.
Trong khu vực làm thủ tục, chúng tôi lại bị khám xét vô cùng kỹ lưỡng. Và nhà báo Như Phong lại mang cuốn Kinh Koran ra. Ngay lập tức, cái người với bộ mặt lạnh, bí ẩn và đầy vũ khí quanh người lại cúi xuống hôn cuốn Kinh. Rồi lại nở nụ cười và xin thánh Ala phù hộ cho chúng tôi.
Còn nữa...
MỘT CUỘC CHIẾN ĐẪM MÁU VÀ ĐẮT ĐỎ Afghanistan phải hứng chịu thiệt hại nhiều nhất. Kể từ năm 2001 khi Mỹ phát động cuộc chiến tại Afghanistan sau vụ tấn công khủng bố 11/09, ít nhất 47.245 dân thường ở Afghanistan đã thiệt mạng, theo dự án Chi phí chiến tranh (Costs of War) tại Đại học Brown. Các vụ tấn công nhắm tới dân thường đã tăng đột biến kể từ khi các cuộc hòa đàm trong nội bộ Afghanistan được khởi động tại Qatar mùa Thu năm ngoái và theo số liệu của Liên hợp quốc, cuộc xung đột tại đây đã khiến tổng cộng 72 nhà báo và 444 nhân viên viện trợ nhân đạo thiệt mạng. Chính phủ Afghanistan không công bố bao nhiêu binh sỹ của nước này đã thiệt mạng tuy nhiên Dự án chi phí chiến tranh ước tính con số này có thể lên tới từ 66.000 tới 69.000. Cuộc chiến đã buộc 2,7 triệu người dân Afghanistan phải chạy sang các nước khác bao gồm Iran, Pakistan và châu Âu. Trong khi đó, 4 trên tổng số 36 triệu người dân nước này đã lâm vào cảnh không nhà cửa. Theo Bộ quốc phòng Mỹ, 2.442 binh sỹ Mỹ đã thiệt mạng và 20.666 đã bị thương kể từ năm 2001. Hơn 3.800 nhà thầu an ninh tư nhân Mỹ cũng được cho là đã thiệt mạng trong cuộc chiến ở Afghanistan. Cuộc chiến cũng đã cướp đi sinh mạng của 1.144 nhân viên của liên quân NATO bao gồm 40 quốc gia với sứ mệnh huấn luyện cho các lực lượng Afghanistan trong nhiều năm. 7.000 quân còn lại của lực lượng này cũng sẽ rút khỏi Afghanistan cùng quân đội Mỹ. Theo Dự án chi phí chiến tranh, Mỹ đã bỏ ra tổng cộng 2,26 nghìn tỷ đô la cho một loạt các chi phí của cuộc chiến ở Afghanistan. Trong khi đó, báo cáo mới nhất của bộ Quốc phòng Mỹ công bố năm 2020 cho biết số tiền dành cho cuộc chiến ở nước này tổng cộng là 815,7 tỷ đô la bao gồm chi phí hoạt động của quân đội Mỹ tại Afghanistan từ nhiên liệu cho tới thực phẩm, vũ khí, đạn dược, xe tăng, xe bọc thép, tàu sân bay, máy bay chiến đấu… Mặc dù mục đích ban đầu của Mỹ khi phát động cuộc chiến ở Afghanista là trả đũa al Qaeda và loại bỏ các thành phần Taliban đã cung cấp hỗ trợ và nơi trú ẩn cho al Qaeda, Taliban, Mỹ và NATO đã sớm chuyển sang một sứ mệnh: xây dựng đất nước ở quy mô lớn. (https://hoinhap.vanhoavaphattrien.vn/) |