Trình phố: Dấu ấn làng Việt cổ với tuổi đời hơn 500 năm lịch sử

Hải Sơn

Làng Trình Phố xưa thuộc tổng An Bồi huyện Chân Định phủ Kiến Xương nay là xã An Ninh huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, Trình Phố nằm giữa hai dòng sông phía Bắc là sông Trình nối dòng với sông Sứ, phía Nam là dòng Kiến Giang. Nếu men theo quốc lộ 39b từ km 17 đến km19 (một danh giới do thời Pháp thuộc lập) đi từ thành phố Thái Bình xuống thì toàn bộ Trình Phố sẽ hiện ra khi nơi đây gồm có 3 thôn, Trình Nhất, Trình Trung và Trình Nhì. Làng Trình Phố cách thị trấn Tiền Hải 2 km, cách Thành phố Thái Bình 19 km.

Theo sử sách ghi lại, Trình Phố xưa là bãi bồi, nhờ dòng chảy của phù sa tụ lại nơi cửa sông Hồng và sông Trà Lý từ cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần cho đến nửa sau thế kỷ XV thì làng Trình Phố mới có diện mạo rõ ràng khi người Việt đã về đây cư trú làm ăn, sinh sống. Ban đầu, chỉ là sự di cư của những dòng họ mà tiêu biểu là dòng họ Ngô, Nguyễn, trước đó là dòng họ Chu, và đa số là những người từ phủ Nông Cống tỉnh Thanh ra đây định cư, họ khai hoang cũng như quy tụ lại với nhau thành khu, sau thành làng và đặt tên là Trình Phả và sau này đến thời kỳ Pháp thuộc, Trình Phả mới được đổi tên thành Trình Phố.

822ca351757ec5209c6f-1743035134.jpg
Cây đa bến chài của ngày nay

Nét văn hoá làng xã trong hồn quê Việt

Quá trình hình thành làng Trình Phố được diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XV với kiểu làng cư ngụ đặc trưng của người Việt cùng nhiều dòng họ tự nguyện di cư đến làm ăn sinh sống khai khoang, lập thổ. Mọi phong tục, tập quán, lễ nghi đều là sự truyền dẫn từ đời này qua đời khác nhưng đã được cải cách theo hơi hướng của hiện đại nhưng lại không hề mất đi tính truyền thống của nếp sống văn hoá làng xã trong hồn quê của người Việt Nam.

Trình Phố có 3 thôn, Trình Nhất, Trình Nhì, Trình Trung, mỗi thôn có nét đặc trưng riêng biệt. Trình nhất, nổi tiếng với nghề trồng lúa khi nơi đây đất đai trù phú, diện tích canh tác lớn. Trình Nhì lại là nơi chú trọng thâm canh cây hoa màu, còn Trình Trung nổi tiếng với nghề trồng thuốc lào. Ngày xưa khi mọi người đặt chân đến Trình Phố chắc chắn sẽ không thể bỏ qua rượu nếp với hương vị thơm ngào ngạt của những bông lúa nếp, men được làm từ những vị thuốc bắc nên hương vị của rượu nếp nơi đây là thứ mà tất cả những ai nếu có dịp ghé qua sẽ không thể bỏ qua. Uống rượu nơi đây ngoài vị ngon ngọt, tê tê đầu lưỡi thì việc chưng cất và nấu rượu hoàn toàn làm bằng thủ công không có chất phụ da nên khi uống sẽ không bị đau đầu. Trong thời kỳ Pháp thuộc, rượu Trình Phố nổi tiếng và cạnh tranh trực tiếp với rượu của thực dân Pháp.

4086bfdb6ff4dfaa86e5-1743035134.jpg
Đền thờ Ngư phong tướng quân Ngô Quang Bích

Ngoài rượu nếp nức tiếng 1 vùng thì nghề chăn nuôi lợn cũng đem lại nhiều điều thú vị của văn hoá làng xã nơi đây. Cũng do việc nấu rượu nếp mà nghề nuôi lợn đã hình thành cũng như phát triển vượt bậc tại Trình Phố khi bỗng rượu được người dân dùng làm thức ăn để chăn nuôi lợn, do nghề nuôi lợn phát triển nên lợn giống trở thành mặt hàng nổi tiếng trong suốt nhiều thời kỳ tại nơi đây, và đã từng được Nhà nước cho thành lập trại lợn giống chuyên cung cấp lợn giống cho các vùng trong cả nước.

Hiện nay, Trình Phố đã được đổi tên thành Xã An Ninh, nhưng 3 thôn Trình Nhất, Trình Nhì, Trình Trung thì vẫn tồn tại qua bao năm tháng. Với hơn 500 trăm năm lịch sử hình thành, phát triển, đã trải qua biết bao thăng trầm nhưng những giá trị văn hoá cốt lõi của Trình Phố vẫn được người dân nơi đây duy trì, mặc dù, đã bị mai một vì cuộc sống hiện đại, nhưng những nếp sống văn hoá làng xã vẫn còn nguyên. Vẫn là cây đa bến chài, địa danh lịch sử được coi là dấu ấn của việc thành lập nên làng Trình Phố vẫn đang được người dân cùng chính quyền địa phương bảo tồn tại xóm 11 thôn trình nhất Tây xã An Ninh.

Phiên chợ Giếng chỉ họp 1 lần trong năm

Có 1 câu ca đã tồn tại rất lâu trong tâm trí của người dân Trình Phố “Ai đi chợ giếng được trăm phiên” để nói về phiên chợ rất đặc biệt của làng Trình Phố khi chợ này chỉ họp 1 năm 1 lần vào ngày mồng 1 tết, do đó, nếu ai đi được 100 phiên chợ tức là họ đã 100 tuổi.

Chợ Giếng là phiên chợ nổi tiếng được họp vào ngày mồng 1 đầu năm, đây được xem là phiên chợ của may mắn, phiên chợ bén duyên của các nam thanh nữ tú trong và ngoài làng. Đến với chợ Giếng, người dân từ già trẻ, gái trai sẽ tụ tập lại chúc tụng, thăm hỏi, mừng tuổi nhau ngày đầu năm mới. Đi chợ Giếng không nhằm mục đích buôn bán, hay trao đổi hàng hoá mà mục đích chính là việc cầu may đầu năm mới theo đúng phong tục từ ngàn đời của người Việt.

ee15890e5721e77fbe30-1743035134.jpg
Mộ phần của Ngư phong tướng quân Ngô Quang Bích tại ngõ Giếng xóm 11 thôn trình nhất tây, Tiền Hải, Thái Bình

Ngày xưa, khi đi chợ Giếng, mọi người sẽ được xem hát ả đào, đánh tổ tôm, đánh vật…, tuy nhiên từ sau cách mạng tháng 8 đến thời điểm hiện tại, khi đi chợ Giếng sẽ không còn những câu hát ả đào như ngày xưa mà thay vào đó là những bài hát cách mạng, những bài hát về mùa xuân về tình yêu và cũng đã có những thời kỳ chợ Giếng bị bỏ quên bởi những cuộc chiến tranh của thực dân gây lên đau thương cho người dân, nhưng sau đó, chợ Giếng nơi đây lại được duy trì cho đến ngày nay và khi đi chợ Giếng, chúng ta lại được đắm chìm trong ký ức về 1 Trình Phố của ngày xưa cũ trong hơi thở của thời đại mới.

Nơi xuất thân của những người con ưu tú

Nổi tiếng tài ba cùng đức độ với khả năng học rộng, hiểu sâu là nhà thơ, nhà nho, nhà giáo với 1 lòng yêu nước nồng nàn phải kể đến Ngư phong tướng quân Ngô Quang Bích hay Nguyễn Quang Bích (1832-1890), ông là người con được sinh ra và lớn lên tại xóm 11 xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, người được xem là thủ lĩnh miền bắc của phong trào Cần Vương thời kỳ đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Ông sinh ra trong 1 gia đình nông dân nghèo nhưng có truyền thống ham học, ông thi đỗ cử nhân năm 1861 và được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Đến năm 1869, ông đỗ đình Nguyên Hoàng Giáp sau đó trải qua quá trình làm quan Tri phủ Diên Khánh (Khách Hoà), Án sát Sơn Tây, Án sát Bình Định rồi về kinh thành làm Tế tửu trường Quốc tử giám đến năm 1875 ông làm Chánh sứ sơn phòng kiêm tuần phủ Hưng Hoá.

Trong cuộc đời của mình, ông được xem là người anh hùng bất diệt và là người con ưu tú của Trình Phố, trong đó, bức thư nổi tiếng được ông viết gửi thực dân Pháp khi Pháp muốn ông chiêu hàng đã trở thành 1 trong những tác phẩm nổi tiếng trong dòng văn học yêu nước Việt Nam, tác phẩm có đoạn “Nếu mà thắng mà sống thì là nghĩa sỹ triều đình, chẳng may mà thua mà chết thì vẫn là quỷ thiêng giết giặc… và một chữ thú từ nay xin quý quốc đừng nhắc lại nữa, đừng khuyên bừa nữa, chúng tôi cam lòng chịu chết vì nghĩa vua tôi…”.

Vào năm 1890 ông bị bệnh và mất, thi hài ông được đưa về chôn cất tại làng Trình Phố nay thuộc ngõ Giếng xóm 11 thôn Trình Nhất Tây, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Lăng mộ, đền thờ ông đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Trước khi ông qua đời, ông đã để lại di sản rất lớn cho thế hệ hậu bối sau này bởi tài năng, sự đức độ và tinh thần ham học hỏi, cầu tiến, trong đó, những tác phẩm văn học, những bài thơ được ông viết đã trở thành những tác phẩm kinh điển của nền thơ ca và văn học Việt.

7d0b8d8d2ba29bfcc2b3-1743035134.jpg
Tác giả bài viết bên Di tích lịch sử Đền thờ Ngư phong tướng công

Bùi Viện (1839-1878), hiệu là Mạnh Dực. Ông sinh ra ở làng Trình Phố nay là thôn Trình Nhì, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trong một gia đình nhà nho kiêm nghề bốc thuốc. Ông thi đỗ cử nhân khoa Bính Thìn, Tự Đức năm thứ 9 (1856). Trước khi thi đỗ ông đã được Quốc tử giám Tế tửu tiến cử với tham tri bộ Lễ Lê Tuấn và đã được giao nhiệm vụ dẹp các bọn phỉ cờ đen, cờ vàng ở phía Bắc. Sau chiến công dẹp giặc, ông lại được mời tham gia mở cảng Ninh Hải (nay là cảng Hải Phòng) và dẹp loạn ở Quảng Yên.

Bùi Viện có chủ trương muốn thắng Pháp phải canh tân đất nước nhưng cách làm của ông khác biệt so với những nhà nho có tư tưởng canh tân khác khi “Chủ trương dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, giao thiệp với các nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhằm làm cân bằng lực lượng để chế ngự người Pháp đang gây áp lực buộc triều đình Huế đầu hàng thời bấy giờ. Ông không cầu viện các nước ở phương Đông như các nhà nho đương thời, ông có tư tưởng cầu viện Mỹ và là người đầu tiên trong lịch sử nước ta sang Mỹ và đã hai lần gặp Tổng thống Mỹ. Trong sự nghiệp cũng như cuộc đời, ông được xem là nhà tư tưởng có cái nhìn cách tân, đổi mới, là người có đóng góp rất lớn cho sự hình thành và phát triển của cảng Hải Phòng ngày nay, ông cũng là người đặt nền móng đầu tiên cho việc phát triển hải quân trên biển đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, nhờ an ninh trên biển được bảo đảm mà việc buôn bán với các nước trong vùng phát triển. Ông mất ngày mồng 1 tháng 11 năm Tự Đức 31 (1878).

Ngoài ra còn rất nhiều những người con ưu tú của mảnh đất Trình Phố anh hùng như Ngô Quang Đoan (là con cả của Ngư phong tướng quân Ngô Quang Bích). Ngô Quang Đàm (cháu ruột của Ngô Quang Bích)… Họ đều là những người anh hùng với lòng yêu nước nồng nàn đã để lại những dấu ấn đậm nét trong thời kỳ đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh. Với nghĩa khí của lòng yêu nước thương dân, họ ham học hỏi, đi lên từ gian khó, họ có những công trạng rất lớn đối với đất nước, đối với người dân và đó là nét đặc trưng truyền thống của dân tộc Việt nói chung và những người con của Trình Phố nói riêng. Trình Phố nay đã đổi khác, cuộc sống hiện đại đã len lỏi vào từng thôn xóm nhưng những giá trị của truyền thống vẫn được người dân nơi đây tôn tạo và giữ gìn đúng với bản chất của làng Việt có tuổi đơn hơn 500 năm.