Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình- Phụ lục- Kỳ 8

Tác giả Phạm Việt Long trong sách Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình đã nghiêm túc tiếp thu người đi trước về phương pháp tiếp cận văn hoá và vận dụng công nghệ hiện đại để xử lý, khảo sát tư liệu, đó là nguyên nhân quan trọng đem đến những đóng góp mới trong công trình nghiên cứu của ông và đây cũng là kinh nghiệm cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểu bản sắc văn hoá Việt Nam (GS.TSKH Phan Đăng Nhật).

bia-tuc-ngu-ca-dao-1624922325.jpg 

Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình- Phụ lục - Kỳ 8

2.2. ĐẠO NGHÜA VỢ CHNG

 

  STT

NỘI DUNG

 

Ai chèo ghe bí qua sông

Đạo vợ nghĩa chồng nặng lắm anh ơi!

 

Anh em cốt nhục đồng bào

Vợ chồng là nghĩa lẽ nào chẳng thương?

 

Anh tới nhà em, anh ăn cơm với cá

Em tới nhà anh, em ăn rau má với cua đồng

Khó em chịu khó, đạo vợ chồng em vẫn thương.

 

Cầu mô cao bằng cầu danh vọng

Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con

Ví dầu nước chảy đá mòn

Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.

 

Chữ rằng: quân tử tạo đoan

Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.

 

Đạo cang thường khó lắm bạn ơi

Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay

Đạo cang thường khá dễ đổi thay

Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.

BK

- Chẳng như ong bướm đậu rồi lại bay .

 

Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm

Phải đâu cua cá với tôm

Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.

 

Đầu đội chúa, vai mang cốt mẹ

Tay dìu dắt cha già

Gặp mặt đây nước mắt nhỏ sa

Thò tay trong túi bà ba

Lấy cái khăn mu soa anh chặm

Đạo vợ chồng ngàn dặm không quên.

 

Đốn cây ai nỡ dứt chồi

Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.

 

ở làm ri đâu cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che.

 

ở sao như lụa đừng phai

Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên.

 

Em nghe anh tỏ lời này

Em đòi để bỏ như vầy sao nên

Tao khang nghĩa ở cho bền

Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà.

 

Gai trong bụi ai vót mà nhọn

Đạo vợ chồng ai chọn mà cân

Trên trời đã định xây vần

Xây cho gấp gấp trong lần năm nay.

 

Hữu bằng tự viễn phương lai(1)

Lạc hồ quân tử(2) lấy ai bạn cùng

Chữ hiếu, là thầy với mẹ

Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân

Yêu nhau bao quản xa gần.

(1) và (2) Hữu bằng tự viễn phương lai, lạc hồ quân tử: nguyên nhân là một câu trong thiên "Học nhi" của sách "Luận ngữ". Trọn câu là: "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ". Có thể hiểu câu đó một cách đơn giản nhất là: có người bạn từ phương xa đến khá lại không vui mừng ư.

 

Làm người phải biết cương thường

Xem trong ngũ đẳng, quân vương ở đầu

Thờ cha, kính mẹ trước sau

Anh em hoà thuận mới hầu làm nên

Vợ chồng đạo nghĩa cho bền

Bạn bè cho thực, dưới trên đứng thường.

 

Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh

Bánh nào trắng bằng bánh bò bông

Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng

Đêm nằm nghĩ lại, nước mắt hồng tuôn rơi.

 

Lấy nhau cho trọn đạo Trời

Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.

 

Mình đưa bâu áo tui viết tháo vài hàng

Trước thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu

Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu

Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền.

 

Mình đừng sầu muộn ốm đau

Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng

Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng

Cang thường li biệt, đạo vợ chồng còn thương.

 

Một thương, hai thương

Ba thương, bốn nhớ

Đạo chồng, nghĩa vợ

Là đức cù lao

Nhớ khi trăng gió, mưa rào

Trăm năm gối phượng má đào bên em.

 

Một thương, hai thương, ba thương, bốn nhớ

Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao

Sông sâu ai dám tới đào

Bạn về nhà bạn, nước mắt ào như mưa.

 

Nay mai anh lại sang Tây(1)

Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh

Không đi thì sợ không lành

Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền

Em ở nhà bình yên buôn bán

Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau

Anh đi chỉ dặn mấy câu

Em về cố giữ lấy màu cho xinh

Nhờ em mọi việc gia đình

Tứ thân phụ mẫu một mình em lo

Em đã là con nhà gia giáo

 Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền

Anh đi vì lệnh quan trên

Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về

Bấy giờ sum họp đề huề

Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui

Đạo vợ chồng giờ xui ra thế

Anh nói câu này em để trong tai

Bấy kì thứ bảy, thứ hai

Anh đi em tiễn ra ngoài la ga

Gửi lời thăm hỏi ông bà

Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng

Còn đây một chút bế bồng

Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn

Xa anh lấy đó làm tin

Cũng là bớt nỗi ưu phiền chia li

Anh đành gạt lệ ra đi

Thương anh chẳng biết nói gì nữaa đâu.

(1)Thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914-1918) thực dân Pháp dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính sang Pháp.

 

Nghĩa tao khang ai đà vội dứt

Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi

Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời

Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau.

 

Nhà em có bụi trầu cay

Nhà anh có khách sang vay lá vàng.

Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn

Thời buổi này kén chọn làm chi

Yêu nhau lấy quách nhau đi

Ở trong giá thú luận cho hoá tài

Đường còn dài, trông sao cho xiết

Đạo vợ chồng ai biết đói no

Quí hồ thầy mẹ gả cho.

 

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước thì thương nhau cùng

Phu thê trong nghĩa tương phùng

Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai

Tấm đá hoa ghi tạc để đời.

 

Phụ hề sanh, mẫu hề dưỡng

Đạo mạc trọng ư cương thường (1)

Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phương

Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn

sông Hương đợi chờ.

(1) Phú hề sanh, mẫu hề dường, đạo mạc trọng ư cương thường: Cha mẹ có sông sinh ra và nuôi dưỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải coi trọng cương thường (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử truyền thống).

 

Phượng chắp cánh lòng còn đợi gió

Rồng chờ trăng còn đậu trên mây

Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày

Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa.

 

Sạch con thì lắm người bồng

Xinh chồng thì lắm người thương

Tin chàng lòng dạ như gương

Không quên nghĩa thiếp, người thương mặc người.

 

Tai em nghe anh đau đầu chưa khá

Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nạm lá anh xông

Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.

BK

Tai em nghe anh đau đầu chưa khá

Em băng đồng vượt sá, bẻ nạm lá anh xông

Có làm gì vậy mới trọn đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che.

 

Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1)

Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình

Một câu phân với nữ trinh

Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung

Hai câu ta phân với anh hùng

Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời

Ba câu anh nói, em phải nghe lời

Đừng nghe lời thá sự, (2) đổi lời duyên ta

Bốn câu nuôi chút mẹ già

Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi.

(1) Hoà châu: hoà người mắt.

(2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời.

 

Tay bưng đĩa muối chấm gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau

Tay bưng đĩa muối sàng rau

Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham.

 

Thang mô cao bằng thang danh vọng

Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con?

Trăm năm nước chảy đá mòn

Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thương.

 

Thương nhau vì nết, chẳng hết chi người

Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời

Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh

- Nghe em phân cạn, vô hạn thương tâm

Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm

Em thề không thuyền khác ôm cầm

Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu.

 

Vợ chồng là nghĩa già đời

Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.

 

Vợ chồng là nghĩa phu thê

Tay ấp má kề, sinh tử có nhau

Chẳng tham của sẵn anh đâu

Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay

Bao giờ cho đặng sum vầy

Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui.

 

Vợ chồng là nghia tao khang

Chồng hoà vợ huận gia đường yên vui.

 

Vợ chồng là nghia tao khang

Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui

Sinh con mới ra thân người

Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.

BK

Vợ chồng là nghĩa tao khang

Chồng hoà vợ kính nhà thường yên vui

Sinh con mới ra mặt người

Làm ăn thanh thản đời đời không lo.

 

Xét ra trong đạo vợ chồng

Cùng nhau tương cậy đề phòng nắng mưa.

 

2.3. ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT

 

STT

NỘI DUNG

 

Ông Nguyệt Lão (1) ngồi rồi xe chỉ thắm

Xe bốn tôi vào làm bạn với tiên cung

Lòng ước ao sánh với nhau cùng

Đây với đấy duyên phận phải chiều

Tơ hồng vấn vít, chỉ điều xe săn

Cầm tay, giao mặt rõ ràng

Chỉ thề nước biếc nhà hằng dám quên

Bốn tôi lên miếu xuống đền

Lên đền, xuống miếu dám quên đâu là

Canh ba nghe vẳng tiếng gà

Gà đương gáy giục, dạ đà tương tư

Canh tư chuông khắc trên lầu

Trên lầu chuông khắc, đã rầu chiêu đăm

Bây giờ sang trống canh năm

Tâm hồn chuyển động, giục xuân bồi hồi

Nhớ ai hết đứng lại ngồi

Hết nằm lại chỗi, hết ngồi lại đi

Phải khi sóng gió bất kỳ

Tưởng chi đến nguyệt, tiếc gì đến xuân

Đã sinh ra số phong trần.

 

Ông Tơ bà Nguyệt đi đâu?

Không về mà gỡ mối sầu cho ta

Ông Tơ bà Nguyệt ở nhà

Không đi mà gỡ cho ra mối sầu.

 

Ông Tơ hồng ơi! Sao ông đành dạ đành lòng

Đôi lứa tôi như sợi chỉ lộn vòng

ông không xe lại, để lòng nhớ thương.

 

Ông Tơ xe chi nghe đà oan khổ

Xe anh lúc còn ở lổ (1)

Xe em thuở chưa mặc quần

Anh thương em từ thuở lọt lòng

Ông Tơ xe sao được tơ hồng mà xe.

(1) Ở lô: ở truồng.

 

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều

Dây tơ hồng đang xe vấn vít

Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt khéo xe

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.

 

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều

Dây tơ hồng đang xe vấn vít

Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt(1) khéo xe

Đôi chúng ta duyên phận phải chiều.

 

Đôi ta như vợ với chồng

Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng chưa xe.

 

Đã thành gia thất hay chưa

Mà anh ước những mây mưa cùng người?

- Tuổi anh đang độ thơ đào

Ông tơ chưa định nơi nào xe duyên.

 

Đêm nằm đặt lưng xuống chiếu

Nghe mấy lời thiết yếu em than

Mau mau trỗi dậy ruột gan đau từ hồi

Canh khuya anh thở vắn than dài

Vái xin Nguyệt Lão trúc mai một nhà

Chữ cận là gần Chữ viễn là xa

Anh với em cách trở tại mẹ cha không đành

Ngãi nhân nay đã gần thành

Mình về thưa lại phụ mẫu đành tôi ưng.

 

Đêm ngắn, tình dài

Tương tư bao nhạt, bao phai hỡi tình!

Bỗng đâu mắc mối xích thằng

Khăng khăng người buộc, ai giằng cho ra

Lên tận trăng già

Hỏi ông Nguyệt Lão có nhà hay không.

 

Đêm qua bước chân lên trời

Lạc đường lạ ngõ gặp người cung Tiên

Ước chi duyên sẽ bén duyên

Cho duyên cõi thọ, thành duyên cõi trần

Dạ buồn chân bước phân vân

Trời xui anh thẳng tới sân tơ hồng

- Ông Tơ, ông có nhà không

Ông ra xua chó cho tôi cùng với nao!

Tơ duyên ông cất nơi nao

Cất trong chum quả, hay vào ao sen?

Người nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền một đôi

Còn như ông ấy với tôi

Thì ông xe thẳng làm đôi vợ chồng.

 

Đêm qua nguyệt đổi sao dời

Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan

Lời thề xưa đã lỗi muôn vàn

Mảnh gương còn đó, phím đàn còn đây

Ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão sao khéo xe dây

Xe cho các cô mình ấy lấy chúng anh đây cũng vừa.

 

Đồn đây có gái má đào

Các Đằng đưa lại, anh hào tới đây

Trước nhờ Nguyệt Lão xe dây

Sắt cầm đưa lại đó đây một nhà.

 

Đấy với đây chẳng duyên thì nợ

Đây với đấy chẳng vợ thì chồng

Dây tơ hồng chưa xe đã mắc

Rượu quỳnh tương chưa nhắp đã say

Chẳng nhè chẳng chén sao say

Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm?

Tìm em như thể tìm chim

Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông.

 

Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu

Bóng trăng đủng đỉnh ra màu khơi trêu.

 Ớ ông Tơ! ông để vương đâu sợi chỉ điều

 

Ai ơi đợi mấy tôi cùng

Tôi còn gỡ mỗi tơ hồng(1) chưa xong

Tơ hồng hồ gỡ đã xong

Ai đem cái bối bòng bong buộc vào.

(1) Tơ hồng, ông Tơ, Nguyệt lão: Theo tục u quái lục, Vi Cố, người đời Đường, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng đang kiếm sổ sách (Nguyệt Lão) trong túi có một cuộn dây đỏ. Vi Cố hỏi chuyện ông già cho biết: "Cuốn sách là sổ hôn nhân và cuộn dây đỏ dùng để buộc nam nữ lại với nhau. Dầu cho hai bên có thù hằn với nhau hoặc dù ở cách xa nhau, đã lấy dây đỏ buộc đôi nam nữ lại thì tất sẽ thành vợ chồng". Do điển này mà những từ Xích thằng, Tơ Hồng, chỉ hồng, chỉ thắm v.v... đều chỉ tình vợ chồng, và Nguyệt lão, Trăng Già, Ông Tơ... Đều chỉ người làm mai mối trong việc hôn nhân.

 

Ai ơi đợi với tôi cùng

Tôi còn dở mối tơ hồng chưa xe.

BK

Anh ơi đợi với tôi cùng

Tôi còn gỡ mối tơ hồng chưa xong.

 

Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn dở mối tơ hồng chửa xe

Có nghe nín lặng mà nghe

Những lời anh nói như xe vào lòng.

 

Ai xinh thì mặc ai xinh

Ông Tơ chỉ quyết xe mình với ta.

 

Anh về sao được mà về

Dây giăng tứ phía tính bề gặp anh

Dây giăng mặc kệ dây giăng

Ông Tơ bà Nguyệt đón ngăn cùng về.

 

Bây giờ tác hiệp nhân duyên

Người hiền gặp được bạn Tiên từ rày

Xin ngài đừng ngại đấy đây

Để cho Nguyệt Lão xe dây muôn đời

Xin nàng đừng ngại gần xa

Để cho chén ngọc đũa ngà có đôi.

 

Bây giờ ta lại gặp ta

Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây

Xe vào như gió như mây

Như chim loan phượng đỗ cây ngô đồng

Thuyền quyên sánh với anh hùng

Những người thục nữ sánh cùng văn nhân

Tình xa nhưng ngãi còn gần

Tràng An quận Bắc giao lân thế nào?

 

Bắc thang lên đến tận trời

Tìm ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay

Đánh rồi lại trói vào cây

Hỏi ông Nguyệt Lão: nào dây tơ hồng?

Nào dây xe bắc xe đông

Nào dây xe vợ xe chồng người ta?

Ông vụng xe, xe phải vợ già

Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!

BK

Bắc thang lên đến tận trời

Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay

Đánh thôi lại trói vào đây

Hỏi ông Nguyệt Lão: Nào dây tơ hồng.

 

Bắt ông Tơ mà cho ba đấm

Bắt bà Nguyệt, đánh bốn mươi chín cái hèo

Duyên người ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều mới xe.

 

Bắt tay ông Tơ mà bơ mà bớp

Bắt lấy bà Nguyệt mà cột cội cau

Cứ xe khắp thiên hạ đâu đâu

Bỏ hai đứa mình lận đận ruột héo gan sầu không xe.

 

Ba năm chẳng xứng duyên hài

Nằm lăn xuống bệ lạy dài ông Tơ.

 

Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi!

Bớ bạn tình nhân ơi!

Thân em như cái quả xoài trên cây

Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc

Nó đánh lúc la lúc lắc, trên cành

Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai?

Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thương

Một lần chờ, hai lần chờ

Sớm lần nhớ, chớ lần thương

Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương.

BK

Bớ thảm bớ thiết ơi

Bớ bạn tình nhân ơi

Thân em như cái trái xoài trên cây

Gió đông gió tây gió nam gió bắc

Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành

Một mai vô tình nó rớt xuống biết vào tay ai?

 

Bực mình lên tận tiên cung

Đem ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời

Nữ lòng trêu ghẹo chi tôi

Lênh đênh bèo nổi, mây trôi một thì

Biết người biết mặt nhau chi

Để đêm em tưởng, ngày thì em thương

Bắc Ninh cho đến Phủ Từ

Qua cầu sông Nhị(1), ngẩn ngơ tìm người

Tìm người chẳng biết mấy nơi

Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.

(2) Nhị sông: còn gọi là Nhị Hà hay Nhĩ Hà, khúc sông Hồng chảy gần Hà Nội.

 

Căn duyên này, ai phá cho rời

Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu không.

 

Công anh lên rừng đốn trúc

Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài

Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ

Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn

Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức

Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi

Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái

Đây cần câu nhân, cần câu ngãi

Đây cần câu phải cần câu khôn

Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng

Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu

- Con cá anh đạp nó đã có cặp

Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu

Anh về sửa lại lưỡi câu

Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng?

 

Cây cao bóng cả duyên mòn

Ước gì tôi được chồng con với người

Có anh như đũa có đôi

Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thương

Khối tơ vương, ruột tằm vấn vít

Bởi ông Tơ bà Nguyệt chưa xe

Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về

Chữ dục đã vậy chữ tuỳ làm sao ?

Muốn cho đông liễu tây đào

Cảnh sầu bể thảm, lẽ nào thiếp mang

Phòng khi lỡ bước theo chàng

Lấy ai chầu chực thành hoàng quốc gia

Phòng khi thiếp ở lại nhà

Một mình thân thiếp biết là làm sao?

 

Cổ tay vừa trắng vừa tròn

Mó vào mát lạnh như hòn tuyết đông

Đôi ta đã xứng vợ chồng

Duyên trời đã định tơ hồng đã xe.

 

Chăn đơn nửa đắp nửa hong

Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau

Từ ngày ăn phải miếng trầu

Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu

Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu

Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa

Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà

Làm cho quên cả đường ra lối vào

Làm cho quên cá dưới ao

Quên sông tắm mát quên sao trên trời

Đất Bụt mà ném chim trời

Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!

Cho nên cá chẳng bén câu

Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim

Thương nhau nên phải đi tìm

Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn.

 

Cha mẹ hồi trước có xem

Ông Tơ đã định em với anh vợ chồng.

 

Con dao be bé sắc thay

Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm

Lòng tôi yêu vụng nhớ thầm

Trách ông Nguyệt Lão xe nhầm duyên ai!

Duyên tôi còn thắm chưa phai

Hay là người đã nghe ai dỗ dành?

 

Dầu thầy mẹ không thương

Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đường lạy vô

Lạy cùng ông bác bà cô

Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ

Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ

Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.

 

Ở đây ai có sẵn tiền

Cho tôi mượn năm quan tiền, tôi quá giang ra ngoài Bắc

Tôi mua một trăm cái đục, một chục cái chàng, mười tám cái khoan

Tôi đóng cái thang một trăm ba mươi hai nấc

Tôi bắc thấu ông Trời vàng

Hỏi thăm Nguyệt Lão chớ duyên nàng về đâu?

 

Ở đây lắm kẻ gièm pha

Nói vào thì ít, nói ra thì nhiều

Thương anh, thương đủ mọi điều

Gió quanh em sẽ lựa chiều em che

Ai nói chi chàng chớ có nghe

Ông Tơ bà Nguyệt đã xe ta rồi

Dù ai khuyên đứng, dỗ ngồi

Thì chàng cũng cứ đãi bôi qua lần.

 

Em là con út nhất nhà 

Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai

Miệng em cười như cánh hoa nhài

Như nụ hoa quế như tai hoa hồng

Ước gì anh được làm chồng

Để em làm vợ, tơ hồng trời xe.

 

Em phải gặp ông Tơ hỏi sao cho biết

Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa cành

Nợ duyên sao sớm dứt tình cho đang.

 

Gặp đây anh nắm cổ tay

Buông ra, em nói lời này thở than

Châu Trần chớ vội bắc ngang

Xa xôi vượt mấy ngày đàng nên quen

Tơ hồng chỉ thắm là duyên

Dẫu bao giờ gặp thì nên bấy giờ.

 

Hôm nay anh đi chợ trời

Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên

Tay thì cầm bút cầm nghiên

Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành

Biên ta rồi lại biên mình

Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta

Chẳng tin lên hỏi trăng già

Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình

Chẳng tin lên hỏi thiên đình

Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta

Quyết liều một trận phong ba

Để cho thiên hạ người ta trông vào

Quyết liều một trận mưa rào

Để cho thiên hạ trông vào đôi ta.

 

Hỡi người đi ở bên bờ

Phen này ắt hẳn ông Tơ xe vào.

 

Hẹn với nước non

Kim xe mũi chỉ, cho tròn vuông tơ

Nguồn ân, bể ái hẹn hò

Dẫu xa nghìn dặm, hồ đồ vẫn không

Nguồn ân một mảnh trăng trong

Có nơi xếp để tơ hồng kíp xe

Đa đoan một mảnh trăng già

Xe đâu, xe hẳn một nhà vui chung

Xe đâu, xe hẳn cho xong.

BK

Trót lời hẹn với nước non

Tơ xe nên để cho tròn duyên tơ

Nguồn ân, bể ái hẹn hò

Dẫu xa nghìn dặm hồ đồ(?) giao thông

Lạnh lùng một cảnh trăng trong

Bốn tôi khấn nguyện ông tơ hồng kíp xe

Đa đoan lắm mấy ông trăng già

Xe đâu xe hẳn một nhà vui chung

Nên chăng hãy quyết cho xong.

 

Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Ông Tơ, bà Nguyệt, xe hoài chẳng thương.

 

Kìa khóm trúc, nọ khóm mai

Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thương

Một lần chờ, hai lần đợi

Ba lần nhớ, bốn lần thương

Anh thương em, nhưng phụ mẫu với họ hàng chẳng thương.

 

Khi xưa em ở ngoài biển anh ở trốn lâm trung

Đến nay đôi ta hội ngộ tương phùng

Trời kia đã định, mối tơ hồng phải xe.

 

Kẻ về, người ở trông theo

Ngựa Hồ chim Việt đôi điều ái ân

Một mình tựa án tần ngần

Năm canh khúc ruột như dần cả năm

Vắng mình ta vẫn hỏi thăm

Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm sao?

Bấy lâu nay những khát khao

Mong chưa thấy mặt lòng nào đã quên

Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên

Vì ai xui giục cho nên nỗi này

Trách ông Tơ ra tay hờ hững

Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày

Bây giờ hai ngả đông, tây

Trước sao xe mối tơ này làm chi?

Chửa biết nhau sao không nói trước

Biết nhau rồi kẻ ngược người xuôi

Bao giờ cho được đủ đôi

Như sen tịnh đế một chồi hai hoa.

 

Kết phức đi đây duyên đó nợ

Kết phức đi đây vợ đó chồng

Dù ông trời chưa định, dù ông Tơ Hồng chưa xe.

 

Lá ngọc cành vàng

Lan huệ tốt tươi

Người có đôi, như đũa có đôi

Vắng tôi quan tướng ngẫm, quan tướng nghĩ, bùi ngùi nhớ trông

Lệch sai ngọc nữ kim đồng

Rẽ mây mà xuống đánh đồng giúp tôi

Gió hiu hiu ngồi chốn năm canh

Quan tướng đi, quan tướng ngẫm, quan tướng nghĩ cái chữ chung tình vân vi

Thương người như lá đài bi

Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương

Bối tơ vương cái ruột con tằm

Bối rối, ông trăng già, bà Nguyệt khéo xe

Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về

Chữ đúc đã vậy vì làm sao?

 

Lại đây anh hỏi cho rành

Cửa nhà gia thất em thành hay chưa?

Má hồng hương thoảng gió đưa

Hỏi nàng có chốn hay chưa hỡi nàng?

- Khoan khoan anh hãy xe ra

Để em biết hết chuyện nhà anh hay

Phủ Hà(1) quê quán xưa nay

Cha mẹ đã định những ngày còn thơ

Bởi vì duyên kiếp hững hờ

Số mình đã lỗi ông Tơ lại lầm

Thuyền son đậu phải vũng đầm

Tại trâu mà gảy đàn cầm biết chi!

Vậy nên em phải ra đi

Đến đâu, ai kẻ thương vì hãy hay.

(1) Phủ Hà Trung: xưa gồm bốn huyện ở phía đông Thanh Hoá là: Hoằng Hoá, Phong Lộc, Nga Sơn, Tống Sơn.

 

Lửng lơ vừng quế soi thềm

Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này

Ở đây gần bạn gần thầy

Có công mài sắc có ngày nên kim.

BK

(a) Lửng lơ vầng quế soi thềm

Hương đưa thơm ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này?

(b) Lửng lơ vừng quế dọi thềm

Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng trốn này.

(c) Lửng lơ bóng quế dãi thềm

Nhang đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?

Thấp thoáng cái bóng ông Trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này

Rồng vàng lên đổ cạn giường vây

Biết rằng đây đấy sum vày gần xa

Xăm xăm bước tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không?

Xăm xăm tới gốc cây thông

Cô Đôi xin nhớ ra lòng ngẩn ngơ.

(d) Lửng lơ bóng quế dãi thềm

Nhang đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đãy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng cho chăng?

Thấp thoán cái bóng ông Trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này

Rồng vàng lên bể cạn giương vây

Biết rằng đây đấy sum vầy gần xa.

(đ) Lẳng lơ vừng quế dọi thềm

Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng để đãy kim nhung

Biết người quân tử có dùng ta chăng?

 

Mây bay xao xác gặp rồng

Tình cờ gặp bạn tơ hồng ta xe.

 

Một đời được mấy anh hùng?

Một nước được mấy ông trị vì?

Anh đừng cợt diễu em chi a

Em đang chắp chỉ chọn ngày cài hoa

Tin lên thiên thương Hằng Nga

Cậy ông Nguyệt lão với bà Tơ vương

Chăn loan, gối phượng sẵn sàng

Màn đào rủ dọc, trướng hồng trải ngang

Còn đang chọn đá thử vàng

Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao

Quan quan bốn tiếng thư cưu

Mong người quân tử hảo cầu kết duyên

Phấn son cho phỉ tấm nguyền

Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình

Phạt kia thơ ấy rành rành,

Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lường.

 

Một mình thiếp giữ lời thề

Hai tình chớ đợi đêm khuya lạnh lùng

Ba tình gánh cát bể Đông

Bốn tình chờ đợi tơ hồng khéo xe

Năm tình một hội hai hè

Sáu tình chỉ quyết xe tơ đá vàng

Bảy tình bia tạc chứ vàng

Tám tình em quyết lấy chàng, chàng ơi!

Chín tình nhớ mãi không nguôi

Mười tình, tính chẳng sang chơi với tình

Tình còn vương nợ ba sinh

Tính ơi, có gỡ cho tình đắp mùa đông

áo tình, tính mặc cho xong mùa hè

Tay tình, tính vốn ngồi kề

Chân tình, tính đội cũng vừa

Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.

 

Mấy năm trời qua tưởng xa em

Hay đâu Trời định anh với em lại cang thường

Ông Tơ xe sợi chỉ hường

Đố em có biết điệu cang thường của ai

Đêm cách bức, ngày chẳng vãng lai

Ông Tơ xe mối chỉ cho hai đứa mình

Chỉ tơ đứt mói thình lình

Bậu ơi, thương chưa phải dạ mà tình đã khiến xa.

 

Năm Thìn trời bão thình lình

Kẻ trôi người nổi, hai đứa mình còn đây

Tơ hồng nay đã về tay

Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình

Điệu phu thê mình giữ trọn tình

Để phụ mẫu hay đặng đánh mình đau tôi.

 

Năm voi anh đúc năm chuông

Năm cô anh đóng năm giường bình phong

Còn một cô bé chửa chồng

Lại đây anh kén cho bằng lòng cô

Một là ông Cống, ông Đồ

Hai là ông Bát, ông Cửu, ông Đô cũng vừa

Giả ơn bà Nguyệt, ông Tơ

Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng

Cho mau cửa lại treo cung

Để cho cô bế cô bồng cô ru

Cô ru rằng:

Con ăn, con bú, con nô

Con lẫy, con bò, con chững, con đi

Ngày sau con cả lớn khôn

Con học, con thi, nhảy ba tầng sóng kinh kì khai nhan.

 

Nằm đêm nghĩ lại trách thầm

Ông Tơ sao cắc cớ(1)

Nhớ ai, rứt xé ruột tằm

Mơ hình tưởng bóng, luỵ dầm thấm bâu.

(1) Cắc cớ: oái oăm, ngược đời.

 

Nào em phụ nghĩa bỏ chồng

Bởi chưng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi.

 

Ngày nay Nguyệt Lão vấn vương

Trăm năm quyết giữ tao khương một đời.

 

Ngồi buồn trách mẹ trách cha

Trách ông Nguyệt Lão, trách bà xe dây.

 

Ngậm ngùi chả dám nói ra

Những lời ngào ngạt chật nhà năm gian

Ông Tơ sao khéo đa đoan

Một lời lan huệ, đá vàng thuỷ chung.

 

Nghĩa non sông há dễ thờ ơ

Hay là tình tự đợi chờ đã lâu

Vẻ chi từ giã cùng nhau

Điều chi nói thực kẻo sầu ai mang

Ông Tơ sao khéo đa đoan

Đang vui xao nỡ để đàn ngang cung

Cùng nhau gắn bó thuỷ chung

Trăm năm tạc dạ ghi lòng dám sai

Đã đành hợp tác bởi Trời

Bởi Trời nhưng cũng có người mới nên

Một lời đây đó là duyên

Chớ nên chểnh mảng để phiền cho nhau.

 

Nhác trông em cái áo vá vai

Thầy mẹ em vá hay tài vá nên

Cái mụn vá em trông cũng có duyên.

BK

Nhác trông tấm áo vá vai

Thầy mẹ anh vá hay tài vá nên?

Nhác trông tấm áo có duyên

Miệng cười hoa nở, càng nhìn càng ưa

áo anh, em mặc cũng vừa

Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta.

 

Nhân bất tri nhi bất uẩn

Bất diệc quân tử hồ?

Anh thương em ruột héo gan khô

Trách ai phân rẽ Hán Hồ đôi nơi

Cánh bèo mặt nước nổi trôi

Thương nhau phải nhớ những lời sớm trưa

Lạc bầy chim nhạn bơ vơ

Đôi ta không nợ ông Tơ bỏ liều

Sao trên trời bao nhiêu

Qua thương bậu bấy nhiêu

Ngày đêm qua nhớ bậu, những trăm chiều quặn đau.

 

Nhờ ai lên đến cung mây

Hỏi ông Nguyệt Lão nào dây tơ hồng

Nào dây xe bắc xe đông

Nào dây xe vợ xe chồng ở đâu.

 

Nước chảy đã vẫn chưa mòn

Ước gì kết ngãi nước non với chàng

Ước gì tạc đá ghi vàng

Ước gì em sánh với chàng từ đây

Ước gì Nguyệt Lão xe dây

Xe cho mình đấy ra đây một nhà.

 

Phải em gặp ông Tơ, hỏi sơ cho biết

Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa nhành

Nợ duyên sao sớm dứt cho đành dạ em?

BK

Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết

Phải gặp bà Nguyệt, gạn thiệt cho rành

Vì đâu hoa nọ lìa nhành

Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ em?

 

Phụ anh, tội lắm bớ nàng!

Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn.

 

Quyết lên trời kiện đến ông Tơ 

Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào.

 

Rồi đây ta kiện ông Tơ

Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào.

 

Rủ nhau đi gánh nước thuyền

Đứt quãng vỡ sải nước liền ra sông

Nhất chờ, nhị đợi, tam mong

Tứ thương, ngũ nhớ, lục mong, thất bát cửu chờ

Mặt trời đã xế về nam

Trách ông Tơ Hồng cùng bà Nguyệt Lão đa đoan nửa chừng!

Cây muốn lặng, gió chẳng muốn dừng.

 

Sáng trăng suông sáng cả bờ sông

Ta được cô ấy ta bồng ta chơi

Ta bồng ta tếch lên trời

Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?

 

Tôi rằng:

Lâm Tri (1) chút ngãi đèo bòng

Hỏi người còn nhớ hay lòng đã quên

Chữ chung tình gánh nặng đôi bên

Dưới dòng nước chảy đôi bên có cầu

Có lòng hạ cố đến nhau

Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã nhiều

Những là đắp nhớ đổi sầu

Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu huê râm

Ngày thì luống những âm thầm

Đêm nằm ít cũng tám, chín mười lần chiêm bao

Tối qua lên tận trên mây

Tôi bẩm là mây

Hôm nay mới được đến đây hầu người

Thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng

Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng

Dây nào xe vợ xe chồng người ta

Dây nào xe phố Thanh Hoa

Thì ông xe lại cho liền lỡ duyên

Thì ông xe lại người ta cho liền

Dây nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền ông ơi!

Dây nào xe bốn chúng tôi

Xe chín lần kép, xe mười lần đơn.

(1) Lâm Tri: địa danh dùng trong truyện Kiều của Nguyễn Du, nguyên là tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

 

Tối qua lên tận trên mây

Hôm nay mới được đén đây hầu người

thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng

Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng

Dây nào xe vợ, xe chồng người ta

Dây nào xe phố thành hoa

Thì ông xe lại người ta cho liền

Dây nào trái kiếp lỡ duyên

Thì ông xe lại cho liền ông ơi!

Dây nào xe bốn chúng tôi

Xe chín lần kép, xe mười lần đơn.

 

Thẩn thơ tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay chăng?

Ngọn đèn thấp hoáng dưới bóng ông trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này.

 

Thuyền quyên gặp kẻ anh hùng

Tay mang nguyệt lão, tay bồng càn khôn.

 

Trách ông Tơ cùng bà Nguyệt Lão

Xe dây vào lại đảo dây ra.

 

Trách ông tơ xe lơi mối chỉ

Trách bà Nguyệt để lỗi đạo tao khang

Vì ai phân rẽ đôi đàng

Dù cho đó dặng chốn giàu sang

Phải nhớ mấy câu ân tình thuở trước chớ có phụ phàng duyên em.

 

Trách ông Tơ ba bảy mươi phần

Dây xe chưa chắc đã lần dây ra.

 

Trách ông tơ giận với bà Tơ

Nơi khẩn cầu không mộ, nơi thờ ơ buộc vào.

 

Trời đã vẹn toàn

Công em lặn suối qua ngàn trèo non

Em thấy người đôi đã đáng đôi

Nhân duyên cũng bởi ông Trời chả xe

Mảnh tơ tình ai xẻ làm hai

Để em chờ đợi mấy người đáng đôi.

bk a-Giời đã vẹn toàn

b-Nhân duyên cũng bởi ông Tơ Hồng chả xe.

 

Vái ông Tơ vài ve rượu thiệt

Vái bà Nguyệt dăm bảy con gà

Xui cho đôi lứa hiệp hoà

Nếu mà đặng vậy, sau trả lễ ông bà chẳng sai.

 

Vái ông Tơ đôi ba chầu hát

Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh

Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm tình

Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ưng.

 

Vái ông Tơ một đĩa bánh bò bông

Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.

 

Vì ông Tơ ham đánh bài xẹp

Vì bà Nguyệt ham đánh bài linh

Xe dây không rành mối, nên duyên nợ đôi đứa mình lửng lơ.

 

Xăm xăm tới gốc mai già

Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không ?

Bạn loan nay đã có chồng

Hay còn ở ngã ba Bông lững lời?