
Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình- Phụ lục - Kỳ 8
2.2. ĐẠO NGHÜA VỢ CHỒNG
STT | NỘI DUNG |
Ai chèo ghe bí qua sông Đạo vợ nghĩa chồng nặng lắm anh ơi! | |
Anh em cốt nhục đồng bào Vợ chồng là nghĩa lẽ nào chẳng thương? | |
Anh tới nhà em, anh ăn cơm với cá Em tới nhà anh, em ăn rau má với cua đồng Khó em chịu khó, đạo vợ chồng em vẫn thương. | |
Cầu mô cao bằng cầu danh vọng Nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con Ví dầu nước chảy đá mòn Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương. | |
Chữ rằng: quân tử tạo đoan Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm. | |
Đạo cang thường khó lắm bạn ơi Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay Đạo cang thường khá dễ đổi thay Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau. BK - Chẳng như ong bướm đậu rồi lại bay . | |
Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm Phải đâu cua cá với tôm Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia. | |
Đầu đội chúa, vai mang cốt mẹ Tay dìu dắt cha già Gặp mặt đây nước mắt nhỏ sa Thò tay trong túi bà ba Lấy cái khăn mu soa anh chặm Đạo vợ chồng ngàn dặm không quên. | |
Đốn cây ai nỡ dứt chồi Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương. | |
ở làm ri đâu cho trọn nghĩa vợ chồng Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che. | |
ở sao như lụa đừng phai Tình chồng nghĩa vợ nhớ hoài không quên. | |
Em nghe anh tỏ lời này Em đòi để bỏ như vầy sao nên Tao khang nghĩa ở cho bền Liễu mai hoà hợp, đôi bên thuận hoà. | |
Gai trong bụi ai vót mà nhọn Đạo vợ chồng ai chọn mà cân Trên trời đã định xây vần Xây cho gấp gấp trong lần năm nay. | |
Hữu bằng tự viễn phương lai(1) Lạc hồ quân tử(2) lấy ai bạn cùng Chữ hiếu, là thầy với mẹ Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân Yêu nhau bao quản xa gần. (1) và (2) Hữu bằng tự viễn phương lai, lạc hồ quân tử: nguyên nhân là một câu trong thiên "Học nhi" của sách "Luận ngữ". Trọn câu là: "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ". Có thể hiểu câu đó một cách đơn giản nhất là: có người bạn từ phương xa đến khá lại không vui mừng ư. | |
Làm người phải biết cương thường Xem trong ngũ đẳng, quân vương ở đầu Thờ cha, kính mẹ trước sau Anh em hoà thuận mới hầu làm nên Vợ chồng đạo nghĩa cho bền Bạn bè cho thực, dưới trên đứng thường. | |
Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh Bánh nào trắng bằng bánh bò bông Đạo nào sâu bằng đạo vợ chồng Đêm nằm nghĩ lại, nước mắt hồng tuôn rơi. | |
Lấy nhau cho trọn đạo Trời Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra. | |
Mình đưa bâu áo tui viết tháo vài hàng Trước thăm phụ mẫu, sau thăm mình đôi câu Đạo vợ chồng thăm thẳm giếng sâu Ngày sau cũng gặp, mất đi đâu bạn phiền. | |
Mình đừng sầu muộn ốm đau Bây giờ cách mặt, ngày sau vợ chồng Ngôn phản ngôn hà lí cội đồng Cang thường li biệt, đạo vợ chồng còn thương. | |
Một thương, hai thương Ba thương, bốn nhớ Đạo chồng, nghĩa vợ Là đức cù lao Nhớ khi trăng gió, mưa rào Trăm năm gối phượng má đào bên em. | |
Một thương, hai thương, ba thương, bốn nhớ Tình chồng nghĩa vợ là đức cù lao Sông sâu ai dám tới đào Bạn về nhà bạn, nước mắt ào như mưa. | |
Nay mai anh lại sang Tây(1) Anh khuyên lời này giữ lấy cho anh Không đi thì sợ không lành Đi ra mang tiếng rằng anh tham tiền Em ở nhà bình yên buôn bán Chớ bao giờ chểnh mảng tình nhau Anh đi chỉ dặn mấy câu Em về cố giữ lấy màu cho xinh Nhờ em mọi việc gia đình Tứ thân phụ mẫu một mình em lo Em đã là con nhà gia giáo Ở sao cho hiếu thảo vẹn tuyền Anh đi vì lệnh quan trên Nhờ Trời hai chữ bình yên anh về Bấy giờ sum họp đề huề Nghĩa trăm năm lại mọi bề yên vui Đạo vợ chồng giờ xui ra thế Anh nói câu này em để trong tai Bấy kì thứ bảy, thứ hai Anh đi em tiễn ra ngoài la ga Gửi lời thăm hỏi ông bà Em ở Hà Nội, anh ra Hải Phòng Còn đây một chút bế bồng Thức khuya dậy sớm trông mong giữ gìn Xa anh lấy đó làm tin Cũng là bớt nỗi ưu phiền chia li Anh đành gạt lệ ra đi Thương anh chẳng biết nói gì nữaa đâu. (1)Thời kì Đại chiến thế giới lần thứ Nhất(1914-1918) thực dân Pháp dùng danh nghĩa "mộ lính" để bắt nhân dân ta đi lính sang Pháp. | |
Nghĩa tao khang ai đà vội dứt Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi Mấy lâu ni mang tiếng chịu lời Xa nhau ngàn dặm đời vẫn nhớ nhau. | |
Nhà em có bụi trầu cay Nhà anh có khách sang vay lá vàng. Cau xiến ngang, trầu vàng ngắt ngọn Thời buổi này kén chọn làm chi Yêu nhau lấy quách nhau đi Ở trong giá thú luận cho hoá tài Đường còn dài, trông sao cho xiết Đạo vợ chồng ai biết đói no Quí hồ thầy mẹ gả cho. | |
Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước thì thương nhau cùng Phu thê trong nghĩa tương phùng Chăn loan gối quế rấp lòng chờ ai Tấm đá hoa ghi tạc để đời. | |
Phụ hề sanh, mẫu hề dưỡng Đạo mạc trọng ư cương thường (1) Thấy anh chàng ràng đôi ngả ba phương Em đây cứ ôm duyên thủ tiết giữa chốn sông Hương đợi chờ. (1) Phú hề sanh, mẫu hề dường, đạo mạc trọng ư cương thường: Cha mẹ có sông sinh ra và nuôi dưỡng, đạo lý đối với cha mẹ phải coi trọng cương thường (các mối quan hệ và các nguyên tắc ứng xử truyền thống). | |
Phượng chắp cánh lòng còn đợi gió Rồng chờ trăng còn đậu trên mây Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày Chàng ôm cầm không lựa khúc, để lên dây cho vừa. | |
Sạch con thì lắm người bồng Xinh chồng thì lắm người thương Tin chàng lòng dạ như gương Không quên nghĩa thiếp, người thương mặc người. | |
Tai em nghe anh đau đầu chưa khá Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nạm lá anh xông Ở làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che. BK Tai em nghe anh đau đầu chưa khá Em băng đồng vượt sá, bẻ nạm lá anh xông Có làm gì vậy mới trọn đạo vợ chồng Đổ mồ hôi em chặm, sẩy ngọn gió lồng em che. | |
Tay anh cầm bút ngọc hoà châu(1) Đề vô trong áo bậu, bốn câu ân tình Một câu phân với nữ trinh Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung Hai câu ta phân với anh hùng Đào sâu cuốc chín ăn chung ở đời Ba câu anh nói, em phải nghe lời Đừng nghe lời thá sự, (2) đổi lời duyên ta Bốn câu nuôi chút mẹ già Tình chồng nghĩa vợ, mẹ với cha đền bồi. (1) Hoà châu: hoà người mắt. (2) Thá sự: nói chệch từ thế sự, nghĩa là việc đời. | |
Tay bưng đĩa muối chấm gừng Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau Tay bưng đĩa muối sàng rau Muối ra có nghĩa, sang giàu đừng ham. | |
Thang mô cao bằng thang danh vọng Nghĩa mô trọng bằng nghĩa chồng con? Trăm năm nước chảy đá mòn Xa nhau ngàn dặm dạ còn nhớ thương. | |
Thương nhau vì nết, chẳng hết chi người Anh không tin dạ, anh sợ đổi đời Em xin cắt tóc thề có đất trời chứng minh - Nghe em phân cạn, vô hạn thương tâm Vợ chồng nghĩa nặng tình thâm Em thề không thuyền khác ôm cầm Anh nhìn mái tóc phải tuôn dầm lệ châu. | |
Vợ chồng là nghĩa già đời Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn. | |
Vợ chồng là nghĩa phu thê Tay ấp má kề, sinh tử có nhau Chẳng tham của sẵn anh đâu Tham vì nhân ngãi năm đầu ngón tay Bao giờ cho đặng sum vầy Giao ca đôi mặt, dạ này mới vui. | |
Vợ chồng là nghia tao khang Chồng hoà vợ huận gia đường yên vui. | |
Vợ chồng là nghia tao khang Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui Sinh con mới ra thân người Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no. BK Vợ chồng là nghĩa tao khang Chồng hoà vợ kính nhà thường yên vui Sinh con mới ra mặt người Làm ăn thanh thản đời đời không lo. | |
Xét ra trong đạo vợ chồng Cùng nhau tương cậy đề phòng nắng mưa. |
2.3. ÔNG TƠ BÀ NGUYỆT
STT | NỘI DUNG |
Ông Nguyệt Lão (1) ngồi rồi xe chỉ thắm Xe bốn tôi vào làm bạn với tiên cung Lòng ước ao sánh với nhau cùng Đây với đấy duyên phận phải chiều Tơ hồng vấn vít, chỉ điều xe săn Cầm tay, giao mặt rõ ràng Chỉ thề nước biếc nhà hằng dám quên Bốn tôi lên miếu xuống đền Lên đền, xuống miếu dám quên đâu là Canh ba nghe vẳng tiếng gà Gà đương gáy giục, dạ đà tương tư Canh tư chuông khắc trên lầu Trên lầu chuông khắc, đã rầu chiêu đăm Bây giờ sang trống canh năm Tâm hồn chuyển động, giục xuân bồi hồi Nhớ ai hết đứng lại ngồi Hết nằm lại chỗi, hết ngồi lại đi Phải khi sóng gió bất kỳ Tưởng chi đến nguyệt, tiếc gì đến xuân Đã sinh ra số phong trần. | |
Ông Tơ bà Nguyệt đi đâu? Không về mà gỡ mối sầu cho ta Ông Tơ bà Nguyệt ở nhà Không đi mà gỡ cho ra mối sầu. | |
Ông Tơ hồng ơi! Sao ông đành dạ đành lòng Đôi lứa tôi như sợi chỉ lộn vòng ông không xe lại, để lòng nhớ thương. | |
Ông Tơ xe chi nghe đà oan khổ Xe anh lúc còn ở lổ (1) Xe em thuở chưa mặc quần Anh thương em từ thuở lọt lòng Ông Tơ xe sao được tơ hồng mà xe. (1) Ở lô: ở truồng. | |
Đôi chúng ta duyên phận phải chiều Dây tơ hồng đang xe vấn vít Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt khéo xe Đôi chúng ta duyên phận phải chiều. | |
Đôi chúng ta duyên phận phải chiều Dây tơ hồng đang xe vấn vít Cái sợi chỉ điều bà Nguyệt(1) khéo xe Đôi chúng ta duyên phận phải chiều. | |
Đôi ta như vợ với chồng Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng chưa xe. | |
Đã thành gia thất hay chưa Mà anh ước những mây mưa cùng người? - Tuổi anh đang độ thơ đào Ông tơ chưa định nơi nào xe duyên. | |
Đêm nằm đặt lưng xuống chiếu Nghe mấy lời thiết yếu em than Mau mau trỗi dậy ruột gan đau từ hồi Canh khuya anh thở vắn than dài Vái xin Nguyệt Lão trúc mai một nhà Chữ cận là gần Chữ viễn là xa Anh với em cách trở tại mẹ cha không đành Ngãi nhân nay đã gần thành Mình về thưa lại phụ mẫu đành tôi ưng. | |
Đêm ngắn, tình dài Tương tư bao nhạt, bao phai hỡi tình! Bỗng đâu mắc mối xích thằng Khăng khăng người buộc, ai giằng cho ra Lên tận trăng già Hỏi ông Nguyệt Lão có nhà hay không. | |
Đêm qua bước chân lên trời Lạc đường lạ ngõ gặp người cung Tiên Ước chi duyên sẽ bén duyên Cho duyên cõi thọ, thành duyên cõi trần Dạ buồn chân bước phân vân Trời xui anh thẳng tới sân tơ hồng - Ông Tơ, ông có nhà không Ông ra xua chó cho tôi cùng với nao! Tơ duyên ông cất nơi nao Cất trong chum quả, hay vào ao sen? Người nào trái kiếp lỡ duyên Thì ông xe lại cho liền một đôi Còn như ông ấy với tôi Thì ông xe thẳng làm đôi vợ chồng. | |
Đêm qua nguyệt đổi sao dời Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan Lời thề xưa đã lỗi muôn vàn Mảnh gương còn đó, phím đàn còn đây Ông Tơ Hồng bà Nguyệt Lão sao khéo xe dây Xe cho các cô mình ấy lấy chúng anh đây cũng vừa. | |
Đồn đây có gái má đào Các Đằng đưa lại, anh hào tới đây Trước nhờ Nguyệt Lão xe dây Sắt cầm đưa lại đó đây một nhà. | |
Đấy với đây chẳng duyên thì nợ Đây với đấy chẳng vợ thì chồng Dây tơ hồng chưa xe đã mắc Rượu quỳnh tương chưa nhắp đã say Chẳng nhè chẳng chén sao say Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm? Tìm em như thể tìm chim Chim ăn bể Bắc, đi tìm bể Đông. | |
Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu Bóng trăng đủng đỉnh ra màu khơi trêu. Ớ ông Tơ! ông để vương đâu sợi chỉ điều | |
Ai ơi đợi mấy tôi cùng Tôi còn gỡ mỗi tơ hồng(1) chưa xong Tơ hồng hồ gỡ đã xong Ai đem cái bối bòng bong buộc vào. (1) Tơ hồng, ông Tơ, Nguyệt lão: Theo tục u quái lục, Vi Cố, người đời Đường, nhân qua chơi Tống Thành, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng đang kiếm sổ sách (Nguyệt Lão) trong túi có một cuộn dây đỏ. Vi Cố hỏi chuyện ông già cho biết: "Cuốn sách là sổ hôn nhân và cuộn dây đỏ dùng để buộc nam nữ lại với nhau. Dầu cho hai bên có thù hằn với nhau hoặc dù ở cách xa nhau, đã lấy dây đỏ buộc đôi nam nữ lại thì tất sẽ thành vợ chồng". Do điển này mà những từ Xích thằng, Tơ Hồng, chỉ hồng, chỉ thắm v.v... đều chỉ tình vợ chồng, và Nguyệt lão, Trăng Già, Ông Tơ... Đều chỉ người làm mai mối trong việc hôn nhân. | |
Ai ơi đợi với tôi cùng Tôi còn dở mối tơ hồng chưa xe. BK Anh ơi đợi với tôi cùng Tôi còn gỡ mối tơ hồng chưa xong. | |
Ai đi đợi với tôi cùng Tôi còn dở mối tơ hồng chửa xe Có nghe nín lặng mà nghe Những lời anh nói như xe vào lòng. | |
Ai xinh thì mặc ai xinh Ông Tơ chỉ quyết xe mình với ta. | |
Anh về sao được mà về Dây giăng tứ phía tính bề gặp anh Dây giăng mặc kệ dây giăng Ông Tơ bà Nguyệt đón ngăn cùng về. | |
Bây giờ tác hiệp nhân duyên Người hiền gặp được bạn Tiên từ rày Xin ngài đừng ngại đấy đây Để cho Nguyệt Lão xe dây muôn đời Xin nàng đừng ngại gần xa Để cho chén ngọc đũa ngà có đôi. | |
Bây giờ ta lại gặp ta Sẽ xin Nguyệt lão, Trăng già xe dây Xe vào như gió như mây Như chim loan phượng đỗ cây ngô đồng Thuyền quyên sánh với anh hùng Những người thục nữ sánh cùng văn nhân Tình xa nhưng ngãi còn gần Tràng An quận Bắc giao lân thế nào? | |
Bắc thang lên đến tận trời Tìm ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay Đánh rồi lại trói vào cây Hỏi ông Nguyệt Lão: nào dây tơ hồng? Nào dây xe bắc xe đông Nào dây xe vợ xe chồng người ta? Ông vụng xe, xe phải vợ già Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên! BK Bắc thang lên đến tận trời Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay Đánh thôi lại trói vào đây Hỏi ông Nguyệt Lão: Nào dây tơ hồng. | |
Bắt ông Tơ mà cho ba đấm Bắt bà Nguyệt, đánh bốn mươi chín cái hèo Duyên người ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều mới xe. | |
Bắt tay ông Tơ mà bơ mà bớp Bắt lấy bà Nguyệt mà cột cội cau Cứ xe khắp thiên hạ đâu đâu Bỏ hai đứa mình lận đận ruột héo gan sầu không xe. | |
Ba năm chẳng xứng duyên hài Nằm lăn xuống bệ lạy dài ông Tơ. | |
Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi! Bớ bạn tình nhân ơi! Thân em như cái quả xoài trên cây Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc, trên cành Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai? Kìa khóm trúc, nọ khóm mai Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thương Một lần chờ, hai lần chờ Sớm lần nhớ, chớ lần thương Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương. BK Bớ thảm bớ thiết ơi Bớ bạn tình nhân ơi Thân em như cái trái xoài trên cây Gió đông gió tây gió nam gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành Một mai vô tình nó rớt xuống biết vào tay ai? | |
Bực mình lên tận tiên cung Đem ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời Nữ lòng trêu ghẹo chi tôi Lênh đênh bèo nổi, mây trôi một thì Biết người biết mặt nhau chi Để đêm em tưởng, ngày thì em thương Bắc Ninh cho đến Phủ Từ Qua cầu sông Nhị(1), ngẩn ngơ tìm người Tìm người chẳng biết mấy nơi Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây. (2) Nhị sông: còn gọi là Nhị Hà hay Nhĩ Hà, khúc sông Hồng chảy gần Hà Nội. | |
Căn duyên này, ai phá cho rời Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu không. | |
Công anh lên rừng đốn trúc Đem về đoạn khúc, chuốt cái cần dài Lấy thép ra mài, uốn câu nhồi gọ Đêm hôm lọ mọ xe sợi chỉ săn Buộc chặt vào cần, móc mồi thơm phức Vội ra ngoài bực, lựa chỗ anh ngồi Thả câu xuống rồi miệng anh thầm vái Đây cần câu nhân, cần câu ngãi Đây cần câu phải cần câu khôn Vái ông Nguyệt lão xe sợi chỉ hồng Đuổi con cá anh đạp đó, cho nó chạy dồn ăn câu - Con cá anh đạp nó đã có cặp Dẫu anh thả hoài chẳng gặp nó đâu Anh về sửa lại lưỡi câu Tìm sang chốn khác duyên hầu nên chăng? | |
Cây cao bóng cả duyên mòn Ước gì tôi được chồng con với người Có anh như đũa có đôi Vắng anh em vẫn ngậm ngùi nhớ thương Khối tơ vương, ruột tằm vấn vít Bởi ông Tơ bà Nguyệt chưa xe Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về Chữ dục đã vậy chữ tuỳ làm sao ? Muốn cho đông liễu tây đào Cảnh sầu bể thảm, lẽ nào thiếp mang Phòng khi lỡ bước theo chàng Lấy ai chầu chực thành hoàng quốc gia Phòng khi thiếp ở lại nhà Một mình thân thiếp biết là làm sao? | |
Cổ tay vừa trắng vừa tròn Mó vào mát lạnh như hòn tuyết đông Đôi ta đã xứng vợ chồng Duyên trời đã định tơ hồng đã xe. | |
Chăn đơn nửa đắp nửa hong Cạn sông, lở núi, ta đừng quên nhau Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà Làm cho quên cả đường ra lối vào Làm cho quên cá dưới ao Quên sông tắm mát quên sao trên trời Đất Bụt mà ném chim trời Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu! Cho nên cá chẳng bén câu Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim Thương nhau nên phải đi tìm Nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn. | |
Cha mẹ hồi trước có xem Ông Tơ đã định em với anh vợ chồng. | |
Con dao be bé sắc thay Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm Lòng tôi yêu vụng nhớ thầm Trách ông Nguyệt Lão xe nhầm duyên ai! Duyên tôi còn thắm chưa phai Hay là người đã nghe ai dỗ dành? | |
Dầu thầy mẹ không thương Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đường lạy vô Lạy cùng ông bác bà cô Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên. | |
Ở đây ai có sẵn tiền Cho tôi mượn năm quan tiền, tôi quá giang ra ngoài Bắc Tôi mua một trăm cái đục, một chục cái chàng, mười tám cái khoan Tôi đóng cái thang một trăm ba mươi hai nấc Tôi bắc thấu ông Trời vàng Hỏi thăm Nguyệt Lão chớ duyên nàng về đâu? | |
Ở đây lắm kẻ gièm pha Nói vào thì ít, nói ra thì nhiều Thương anh, thương đủ mọi điều Gió quanh em sẽ lựa chiều em che Ai nói chi chàng chớ có nghe Ông Tơ bà Nguyệt đã xe ta rồi Dù ai khuyên đứng, dỗ ngồi Thì chàng cũng cứ đãi bôi qua lần. | |
Em là con út nhất nhà Lời ăn tiếng nói thật thà khoan thai Miệng em cười như cánh hoa nhài Như nụ hoa quế như tai hoa hồng Ước gì anh được làm chồng Để em làm vợ, tơ hồng trời xe. | |
Em phải gặp ông Tơ hỏi sao cho biết Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành Vì đâu hoa nọ lìa cành Nợ duyên sao sớm dứt tình cho đang. | |
Gặp đây anh nắm cổ tay Buông ra, em nói lời này thở than Châu Trần chớ vội bắc ngang Xa xôi vượt mấy ngày đàng nên quen Tơ hồng chỉ thắm là duyên Dẫu bao giờ gặp thì nên bấy giờ. | |
Hôm nay anh đi chợ trời Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên Tay thì cầm bút cầm nghiên Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành Biên ta rồi lại biên mình Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta Chẳng tin lên hỏi trăng già Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình Chẳng tin lên hỏi thiên đình Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta Quyết liều một trận phong ba Để cho thiên hạ người ta trông vào Quyết liều một trận mưa rào Để cho thiên hạ trông vào đôi ta. | |
Hỡi người đi ở bên bờ Phen này ắt hẳn ông Tơ xe vào. | |
Hẹn với nước non Kim xe mũi chỉ, cho tròn vuông tơ Nguồn ân, bể ái hẹn hò Dẫu xa nghìn dặm, hồ đồ vẫn không Nguồn ân một mảnh trăng trong Có nơi xếp để tơ hồng kíp xe Đa đoan một mảnh trăng già Xe đâu, xe hẳn một nhà vui chung Xe đâu, xe hẳn cho xong. BK Trót lời hẹn với nước non Tơ xe nên để cho tròn duyên tơ Nguồn ân, bể ái hẹn hò Dẫu xa nghìn dặm hồ đồ(?) giao thông Lạnh lùng một cảnh trăng trong Bốn tôi khấn nguyện ông tơ hồng kíp xe Đa đoan lắm mấy ông trăng già Xe đâu xe hẳn một nhà vui chung Nên chăng hãy quyết cho xong. | |
Kìa khóm trúc, nọ khóm mai Ông Tơ, bà Nguyệt, xe hoài chẳng thương. | |
Kìa khóm trúc, nọ khóm mai Ông Tơ, bà Nguyệt xe hoài chẳng thương Một lần chờ, hai lần đợi Ba lần nhớ, bốn lần thương Anh thương em, nhưng phụ mẫu với họ hàng chẳng thương. | |
Khi xưa em ở ngoài biển anh ở trốn lâm trung Đến nay đôi ta hội ngộ tương phùng Trời kia đã định, mối tơ hồng phải xe. | |
Kẻ về, người ở trông theo Ngựa Hồ chim Việt đôi điều ái ân Một mình tựa án tần ngần Năm canh khúc ruột như dần cả năm Vắng mình ta vẫn hỏi thăm Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm sao? Bấy lâu nay những khát khao Mong chưa thấy mặt lòng nào đã quên Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên Vì ai xui giục cho nên nỗi này Trách ông Tơ ra tay hờ hững Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày Bây giờ hai ngả đông, tây Trước sao xe mối tơ này làm chi? Chửa biết nhau sao không nói trước Biết nhau rồi kẻ ngược người xuôi Bao giờ cho được đủ đôi Như sen tịnh đế một chồi hai hoa. | |
Kết phức đi đây duyên đó nợ Kết phức đi đây vợ đó chồng Dù ông trời chưa định, dù ông Tơ Hồng chưa xe. | |
Lá ngọc cành vàng Lan huệ tốt tươi Người có đôi, như đũa có đôi Vắng tôi quan tướng ngẫm, quan tướng nghĩ, bùi ngùi nhớ trông Lệch sai ngọc nữ kim đồng Rẽ mây mà xuống đánh đồng giúp tôi Gió hiu hiu ngồi chốn năm canh Quan tướng đi, quan tướng ngẫm, quan tướng nghĩ cái chữ chung tình vân vi Thương người như lá đài bi Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương Bối tơ vương cái ruột con tằm Bối rối, ông trăng già, bà Nguyệt khéo xe Quan tướng nghe hiệu lệnh thì về Chữ đúc đã vậy vì làm sao? | |
Lại đây anh hỏi cho rành Cửa nhà gia thất em thành hay chưa? Má hồng hương thoảng gió đưa Hỏi nàng có chốn hay chưa hỡi nàng? - Khoan khoan anh hãy xe ra Để em biết hết chuyện nhà anh hay Phủ Hà(1) quê quán xưa nay Cha mẹ đã định những ngày còn thơ Bởi vì duyên kiếp hững hờ Số mình đã lỗi ông Tơ lại lầm Thuyền son đậu phải vũng đầm Tại trâu mà gảy đàn cầm biết chi! Vậy nên em phải ra đi Đến đâu, ai kẻ thương vì hãy hay. (1) Phủ Hà Trung: xưa gồm bốn huyện ở phía đông Thanh Hoá là: Hoằng Hoá, Phong Lộc, Nga Sơn, Tống Sơn. | |
Lửng lơ vừng quế soi thềm Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng Dao vàng bỏ đãy kim nhung Biết rằng quân tử có dùng ta chăng Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng Ai đem người ngọc thung thăng chốn này Ở đây gần bạn gần thầy Có công mài sắc có ngày nên kim. BK (a) Lửng lơ vầng quế soi thềm Hương đưa thơm ngát càng thêm bận lòng Dao vàng bỏ đãy kim nhung Biết rằng quân tử có dùng ta chăng Đèn tà thấp thoáng bóng trăng Ai đem người ngọc thung thăng chốn này? (b) Lửng lơ vừng quế dọi thềm Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng Dao vàng bỏ đãy kim nhung Biết rằng quân tử có dùng ta chăng Đèn tàn thấp thoáng bóng trăng Ai đem người ngọc thung thăng trốn này. (c) Lửng lơ bóng quế dãi thềm Nhang đưa bát ngát càng thêm bận lòng Dao vàng bỏ đãy kim nhung Biết rằng quân tử có dùng ta chăng? Thấp thoáng cái bóng ông Trăng Ai đem người ngọc thung thăng chốn này Rồng vàng lên đổ cạn giường vây Biết rằng đây đấy sum vày gần xa Xăm xăm bước tới gốc mai già Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không? Xăm xăm tới gốc cây thông Cô Đôi xin nhớ ra lòng ngẩn ngơ. (d) Lửng lơ bóng quế dãi thềm Nhang đưa bát ngát càng thêm bận lòng Dao vàng bỏ đãy kim nhung Biết rằng quân tử có dùng cho chăng? Thấp thoán cái bóng ông Trăng Ai đem người ngọc thung thăng chốn này Rồng vàng lên bể cạn giương vây Biết rằng đây đấy sum vầy gần xa. (đ) Lẳng lơ vừng quế dọi thềm Chuông đưa bát ngát càng thêm bận lòng Dao vàng để đãy kim nhung Biết người quân tử có dùng ta chăng? | |
Mây bay xao xác gặp rồng Tình cờ gặp bạn tơ hồng ta xe. | |
Một đời được mấy anh hùng? Một nước được mấy ông trị vì? Anh đừng cợt diễu em chi a Em đang chắp chỉ chọn ngày cài hoa Tin lên thiên thương Hằng Nga Cậy ông Nguyệt lão với bà Tơ vương Chăn loan, gối phượng sẵn sàng Màn đào rủ dọc, trướng hồng trải ngang Còn đang chọn đá thử vàng Ngọc lành ai quảy ra đàng bán rao Quan quan bốn tiếng thư cưu Mong người quân tử hảo cầu kết duyên Phấn son cho phỉ tấm nguyền Anh hùng sánh với thuyền quyên mới tình Phạt kia thơ ấy rành rành, Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lường. | |
Một mình thiếp giữ lời thề Hai tình chớ đợi đêm khuya lạnh lùng Ba tình gánh cát bể Đông Bốn tình chờ đợi tơ hồng khéo xe Năm tình một hội hai hè Sáu tình chỉ quyết xe tơ đá vàng Bảy tình bia tạc chứ vàng Tám tình em quyết lấy chàng, chàng ơi! Chín tình nhớ mãi không nguôi Mười tình, tính chẳng sang chơi với tình Tình còn vương nợ ba sinh Tính ơi, có gỡ cho tình đắp mùa đông áo tình, tính mặc cho xong mùa hè Tay tình, tính vốn ngồi kề Chân tình, tính đội cũng vừa Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta. | |
Mấy năm trời qua tưởng xa em Hay đâu Trời định anh với em lại cang thường Ông Tơ xe sợi chỉ hường Đố em có biết điệu cang thường của ai Đêm cách bức, ngày chẳng vãng lai Ông Tơ xe mối chỉ cho hai đứa mình Chỉ tơ đứt mói thình lình Bậu ơi, thương chưa phải dạ mà tình đã khiến xa. | |
Năm Thìn trời bão thình lình Kẻ trôi người nổi, hai đứa mình còn đây Tơ hồng nay đã về tay Bà Nguyệt ở lại xe dây hai đứa mình Điệu phu thê mình giữ trọn tình Để phụ mẫu hay đặng đánh mình đau tôi. | |
Năm voi anh đúc năm chuông Năm cô anh đóng năm giường bình phong Còn một cô bé chửa chồng Lại đây anh kén cho bằng lòng cô Một là ông Cống, ông Đồ Hai là ông Bát, ông Cửu, ông Đô cũng vừa Giả ơn bà Nguyệt, ông Tơ Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng hùng Cho mau cửa lại treo cung Để cho cô bế cô bồng cô ru Cô ru rằng: Con ăn, con bú, con nô Con lẫy, con bò, con chững, con đi Ngày sau con cả lớn khôn Con học, con thi, nhảy ba tầng sóng kinh kì khai nhan. | |
Nằm đêm nghĩ lại trách thầm Ông Tơ sao cắc cớ(1) Nhớ ai, rứt xé ruột tằm Mơ hình tưởng bóng, luỵ dầm thấm bâu. (1) Cắc cớ: oái oăm, ngược đời. | |
Nào em phụ nghĩa bỏ chồng Bởi chưng Nguyệt Lão mối chỉ tơ hồng xe lơi. | |
Ngày nay Nguyệt Lão vấn vương Trăm năm quyết giữ tao khương một đời. | |
Ngồi buồn trách mẹ trách cha Trách ông Nguyệt Lão, trách bà xe dây. | |
Ngậm ngùi chả dám nói ra Những lời ngào ngạt chật nhà năm gian Ông Tơ sao khéo đa đoan Một lời lan huệ, đá vàng thuỷ chung. | |
Nghĩa non sông há dễ thờ ơ Hay là tình tự đợi chờ đã lâu Vẻ chi từ giã cùng nhau Điều chi nói thực kẻo sầu ai mang Ông Tơ sao khéo đa đoan Đang vui xao nỡ để đàn ngang cung Cùng nhau gắn bó thuỷ chung Trăm năm tạc dạ ghi lòng dám sai Đã đành hợp tác bởi Trời Bởi Trời nhưng cũng có người mới nên Một lời đây đó là duyên Chớ nên chểnh mảng để phiền cho nhau. | |
Nhác trông em cái áo vá vai Thầy mẹ em vá hay tài vá nên Cái mụn vá em trông cũng có duyên. BK Nhác trông tấm áo vá vai Thầy mẹ anh vá hay tài vá nên? Nhác trông tấm áo có duyên Miệng cười hoa nở, càng nhìn càng ưa áo anh, em mặc cũng vừa Ông Tơ bà Nguyệt khéo lừa đôi ta. | |
Nhân bất tri nhi bất uẩn Bất diệc quân tử hồ? Anh thương em ruột héo gan khô Trách ai phân rẽ Hán Hồ đôi nơi Cánh bèo mặt nước nổi trôi Thương nhau phải nhớ những lời sớm trưa Lạc bầy chim nhạn bơ vơ Đôi ta không nợ ông Tơ bỏ liều Sao trên trời bao nhiêu Qua thương bậu bấy nhiêu Ngày đêm qua nhớ bậu, những trăm chiều quặn đau. | |
Nhờ ai lên đến cung mây Hỏi ông Nguyệt Lão nào dây tơ hồng Nào dây xe bắc xe đông Nào dây xe vợ xe chồng ở đâu. | |
Nước chảy đã vẫn chưa mòn Ước gì kết ngãi nước non với chàng Ước gì tạc đá ghi vàng Ước gì em sánh với chàng từ đây Ước gì Nguyệt Lão xe dây Xe cho mình đấy ra đây một nhà. | |
Phải em gặp ông Tơ, hỏi sơ cho biết Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành Vì đâu hoa nọ lìa nhành Nợ duyên sao sớm dứt cho đành dạ em? BK Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết Phải gặp bà Nguyệt, gạn thiệt cho rành Vì đâu hoa nọ lìa nhành Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ em? | |
Phụ anh, tội lắm bớ nàng! Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn. | |
Quyết lên trời kiện đến ông Tơ Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào. | |
Rồi đây ta kiện ông Tơ Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào. | |
Rủ nhau đi gánh nước thuyền Đứt quãng vỡ sải nước liền ra sông Nhất chờ, nhị đợi, tam mong Tứ thương, ngũ nhớ, lục mong, thất bát cửu chờ Mặt trời đã xế về nam Trách ông Tơ Hồng cùng bà Nguyệt Lão đa đoan nửa chừng! Cây muốn lặng, gió chẳng muốn dừng. | |
Sáng trăng suông sáng cả bờ sông Ta được cô ấy ta bồng ta chơi Ta bồng ta tếch lên trời Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là? | |
Tôi rằng: Lâm Tri (1) chút ngãi đèo bòng Hỏi người còn nhớ hay lòng đã quên Chữ chung tình gánh nặng đôi bên Dưới dòng nước chảy đôi bên có cầu Có lòng hạ cố đến nhau Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã nhiều Những là đắp nhớ đổi sầu Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu huê râm Ngày thì luống những âm thầm Đêm nằm ít cũng tám, chín mười lần chiêm bao Tối qua lên tận trên mây Tôi bẩm là mây Hôm nay mới được đến đây hầu người Thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng Dây nào xe vợ xe chồng người ta Dây nào xe phố Thanh Hoa Thì ông xe lại cho liền lỡ duyên Thì ông xe lại người ta cho liền Dây nào trái kiếp lỡ duyên Thì ông xe lại cho liền ông ơi! Dây nào xe bốn chúng tôi Xe chín lần kép, xe mười lần đơn. (1) Lâm Tri: địa danh dùng trong truyện Kiều của Nguyễn Du, nguyên là tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. | |
Tối qua lên tận trên mây Hôm nay mới được đén đây hầu người thấy ông Nguyệt Lão xe dây tơ hồng Dây nào tam phủ, địa phủ cộng đồng Dây nào xe vợ, xe chồng người ta Dây nào xe phố thành hoa Thì ông xe lại người ta cho liền Dây nào trái kiếp lỡ duyên Thì ông xe lại cho liền ông ơi! Dây nào xe bốn chúng tôi Xe chín lần kép, xe mười lần đơn. | |
Thẩn thơ tới gốc mai già Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay chăng? Ngọn đèn thấp hoáng dưới bóng ông trăng Ai đem người ngọc thung thăng chốn này. | |
Thuyền quyên gặp kẻ anh hùng Tay mang nguyệt lão, tay bồng càn khôn. | |
Trách ông Tơ cùng bà Nguyệt Lão Xe dây vào lại đảo dây ra. | |
Trách ông tơ xe lơi mối chỉ Trách bà Nguyệt để lỗi đạo tao khang Vì ai phân rẽ đôi đàng Dù cho đó dặng chốn giàu sang Phải nhớ mấy câu ân tình thuở trước chớ có phụ phàng duyên em. | |
Trách ông Tơ ba bảy mươi phần Dây xe chưa chắc đã lần dây ra. | |
Trách ông tơ giận với bà Tơ Nơi khẩn cầu không mộ, nơi thờ ơ buộc vào. | |
Trời đã vẹn toàn Công em lặn suối qua ngàn trèo non Em thấy người đôi đã đáng đôi Nhân duyên cũng bởi ông Trời chả xe Mảnh tơ tình ai xẻ làm hai Để em chờ đợi mấy người đáng đôi. bk a-Giời đã vẹn toàn b-Nhân duyên cũng bởi ông Tơ Hồng chả xe. | |
Vái ông Tơ vài ve rượu thiệt Vái bà Nguyệt dăm bảy con gà Xui cho đôi lứa hiệp hoà Nếu mà đặng vậy, sau trả lễ ông bà chẳng sai. | |
Vái ông Tơ đôi ba chầu hát Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm tình Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ưng. | |
Vái ông Tơ một đĩa bánh bò bông Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm. | |
Vì ông Tơ ham đánh bài xẹp Vì bà Nguyệt ham đánh bài linh Xe dây không rành mối, nên duyên nợ đôi đứa mình lửng lơ. | |
Xăm xăm tới gốc mai già Hỏi thăm ông Nguyệt Lão có nhà hay không ? Bạn loan nay đã có chồng Hay còn ở ngã ba Bông lững lời? |