Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Chiều 28/1, bên hành lang Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ đã có cuộc trao đổi xung quanh các vấn đề giáo dục và đào tạo mà dư luận quan tâm.
Phát triển phẩm chất, năng lực người học
Sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 29, đâu là những kết quả Bộ trưởng tâm đắc nhất?
Có rất nhiều kết quả sau 7 năm thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trước hết, đã thể chế hóa được các quan điểm, nội dung của Nghị quyết 29 trong các cơ chế, chính sách Quốc hội, Chính phủ, Bộ GD&ĐT nên đến thời điểm này đã có hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đổi mới.
Ở bậc mầm non, đã phổ cập được mầm non 5 tuổi trên toàn quốc, đây có thể nói là kết quả rất lớn khi nước ta là quốc gia ở mức thu nhập trung bình và trong điểu kiện còn rất nhiều vùng kinh tế-xã hội khó khăn. Các tổ chức quốc tế như UNICEF, UNESCO cũng đã đánh giá cao kết quả này.
Chúng ta cũng đạt được phổ cập tiểu học và THCS ở mức độ cao. Hiện nay, các địa phương đã đạt được chuẩn giáo dục tiểu học mức độ 3 và khoảng 18 địa phương ở mức độ 2, 3 đối với cấp THCS.
Chất lượng giáo dục phổ thông cũng được các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chất lượng tiểu học vào nhóm đầu các nước ASEAN. Trong đánh giá chất lượng đại trà PISA, điểm của học sinh Việt Nam cũng ở nhóm cao trong số 79 nước, trong đó chủ yếu là các nước OECD (Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế).
Kết quả của giáo dục mũi nhọn, thể hiện trong các giải Olympic quốc tế cũng đạt rất cao. Trong 5 năm vừa rồi đã có 54 Huy chương Vàng, gấp đôi giai đoạn 5 năm trước đó.
Với giáo dục đại học, giai đoạn vừa qua cũng nhiều điểm sáng. Trước hết thực hiện tự chủ đại học. Nhiều trường đại học thực hiện rất mạnh quản trị đại học, trong đó có một số đại học đã bắt đầu xuất hiện trên các bản đồ xếp hạng quốc tế. Lần đầu tiên Việt Nam có 4 trường đại học được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới, 11 cơ sở giáo dục đại học xếp trong nhóm 500 trường tốt nhất Châu Á.
Kinh nghiệm rút ra là phải kiên trì đổi mới và cho đến nay có thể thấy là đổi mới đã đi đúng hướng - đây là điểm rất quan trọng.
Đối với mầm non là phải tạo điều kiện tốt về chăm sóc, nuôi dưỡng, an toàn cho trẻ. Còn đối với phổ thông, giai đoạn vừa rồi đánh dấu quá trình triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới theo tinh thần Nghị quyết 29, Nghị quyết 88 của Quốc hội.
Nổi bật của lần đổi mới này là cách tiếp cận chuyển từ truyền đạt nội dung chuyển sang phát triển phẩm chất, năng lực người học. Nói cụ thể hơn là nếu như trước đây học sinh học hết một học kỳ, một năm học biết cái gì, thì nay là biết làm gì. Điều này khắc phục được cơ bản học lý thuyết mà không gắn với thực hiện, không gắn với trải nghiệm.
Còn đối với đại học, chúng ta đã thực hiện tự chủ đại học rất mạnh. Lần đầu tiên tư duy tự chủ đại học đã “ngấm” được vào đội ngũ lãnh đạo các trường đại học. Tuy nhiên, vẫn cần có thêm thời gian, bởi tự chủ đại học là một quá trình. Quan trọng là lãnh đạo các trường đại học thấy được tự chủ là tất yếu. Bên cạnh tự chủ là gắn với trách nhiệm giải trình và thực hiện tốt tự chủ là gắn với chất lượng.
Bộ GD&ĐT đã rất quan tâm tới hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình tự chủ. Bộ đã tham mưu cho Chính phủ xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học 2018, sau đó tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 99. Hiện nay, chúng tôi đang chỉ đạo các trường đại học đẩy mạnh tự chủ đại học, trước hết là hoàn thiện Hội đồng trường, để Hội đồng trường phải là một thiết chế thực quyền.
Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT đang làm rất mạnh về kiểm định và minh bạch về chất lượng. Các trường đại học hiện nay đang thực hiện theo cơ chế cạnh tranh nên chương trình đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, chất lượng, điều kiện đảm bảo chất lượng phải được công khai, minh bạch.
Trong bối cảnh tự chủ đại học, Bộ GD&ĐT sẽ tập trung rà soát, ban hành cơ chế chính sách, tạo môi trường đủ thông thoáng và chặt chẽ cho các cơ sở giáo dục đào tạo hoạt động mang tính cạnh tranh và tăng cường thanh, kiểm tra. Thời gian qua, thanh kiểm tra chưa mạnh, tới đây phải làm mạnh hơn. Thanh kiểm tra không phải để siết lại mà thực chất là để qua đó “gỡ khó” cho các trường.
Ví dụ trong môi trường cạnh tranh, nếu một số trường đại học hoạt động không tốt sẽ ảnh hưởng tới các trường khác. Nên thực chất thanh, kiểm tra ở đây là xóa bỏ những “u nhọt” để môi trường cạnh tranh thực sự công bằng, dân chủ. Các trường và các ngành đào tạo phải thể hiện được nhu cầu của thị trường.
Chúng tôi đang triển khai rất mạnh chuẩn chương trình, tất cả các chương trình phải đáp ứng chuẩn đầu ra, còn các cơ sở đào tạo theo điều kiện đảm bảo trên chuẩn đó. Đây là điểm mới trong Luật Giáo dục đại học năm 2018. Hiện nay, nhiều trường được tự chủ mở ngành và tuyên bố chuẩn đầu ra nhưng chuẩn phải được công khai. Như vậy, những trường không đủ điều kiện không thể tồn tại được. Ở đây không phải sử dụng biện pháp hành chính mà qua công khai, minh bạch và giám sát để người học có quyền lựa chọn.
Bộ GD&ĐT có trách nhiệm làm minh bạch và hiện nay chúng tôi đã triển khai một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia của đại học. Chủ trương của ngành là trong 5 năm tới sẽ triển khai mạnh chuyển đổi số đối với đại học, một mặt chuyển đối số để xây dựng tài nguyên số và xây dựng phương thức đào tạo trực tuyến kết hợp với trực tiếp tốt, nhưng chúng tôi rất quan tâm tới áp dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa điều kiện đảm bảo chất lượng. Có nhiều trường trên thực tế có thể quảng cáo rất hay nhưng thực tế không hẳn như vậy.
Tôi lấy ví dụ, hiện nay một trong những điều kiện để mở mã ngành là đội ngũ giảng viên, khi không minh bạch hoặc chưa minh bạch đầy đủ danh sách giáo viên thì có thể các trường mượn tên của nhau. Nhưng bây giờ minh bạch thì giảng viên nào đã ở trường này thì không có tên ở trường kia. Như vậy, những cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là một số trường tư thục không đảm bảo chất lượng thậm chí Bộ GD&ĐT chưa cần thiết phải có biện pháp hành chính mà chỉ cần công khai. Và hiện nay đã thấy hiện tượng một số trường tư không tuyển được học sinh nên sẽ phải điều chỉnh.
Chủ trương của Bộ là cố gắng hạn chế hành chính, tăng cường minh bạch, tạo cơ chế cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi cho người đi học, bảo vệ cho những cơ sở giáo dục đại học làm tốt, để từ đó sẽ sắp xếp được trật tự của thị trường.
Hướng đổi mới rất mạnh mà chúng tôi cho là đột phá là đổi mới cơ chế quản lý. Đối với nhà nước tập trung quản lý nhà nước, đối với nhà trường tập trung quản trị. Quản lý nhà nước phải tăng cường, nhất là nhiệm vụ thanh kiểm tra. Trong quá trình thanh kiểm tra nếu thấy cần điều chỉnh cơ chế chính sách cần kịp thời điều chỉnh, chứ không phải ban hành xong là xong.
Chúng tôi quyết tâm, những cơ sở nào kém chất lượng và có biểu hiện gian dối thì trong thẩm quyền và kiến nghị các cấp có thẩm quyền làm mạnh, để tạo ra môi trường minh bạch.
Đối với bậc đại học là bậc đào tạo nguồn nhân lực thì trong chừng mực nào đó sự minh bạch sẽ sắp xếp lại các nguồn lực, điều chỉnh lại các trường.
6 năm qua, ngành GD&ĐT đã có nhiều nỗ lực để đổi mới thi cử, đánh giá, chuyển tử đánh giá theo điểm số, đánh giá thường xuyên theo học kỳ, hiện nay chuyển sang đánh giá theo quá trình, theo sự tiến bộ của người học.
Ở bậc học phổ thông, chúng ta cần tăng cường thêm giáo dục đạo đức lối sống, kỹ năng sống, toàn diện, giáo dục thể chất. Học sinh phổ thông của Việt Nam có kiến thức tốt, nếu khai thác tốt điểm mạnh này được ở bậc đại học sẽ có nền tảng cao.
Thiên nhiều về đào tạo hơn giáo dục?
Có ý kiến cho rằng, chúng ta đang nghiêng về đào tạo nhiều hơn về giáo dục. vậy ông có nhận định gì?
Giáo dục và đào tạo rất rộng, có liên quan đến mọi người, mọi nhà. Không chỉ có nước ta mà nước khác cũng vậy. Kỳ vọng của mỗi người học và gia đình bao giờ cũng lớn, trong khi điều kiện thực hiện thì ở mức độ.
Riêng chúng ta là nước có mức thu nhập trung bình còn thấp, mà chúng ta thực hiện nhiệm vụ đổi mới căn bản toàn diện GD&ĐT, để chất lượng giáo dục tiến nhanh với nền giáo dục tiên tiến. Với mục tiêu là toàn diện, chúng ta lại có truyền thống khoa bảng và rất nhiều thứ cộng lại. Do vậy, bên cạnh cái được rất lớn là về kiến thức thì vấn đề giáo dục kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng mềm, vấn đề về đạo đức, những vấn đề liên quan đến ứng xử, giáo dục thể chất để tầm vóc, thể lực của các em đảm bảo toàn diện còn hạn chế. Nên ý nói rằng, chúng ta thiên nhiều về đào tạo mà chưa nhiều về giáo dục là có cơ sở.
Tuy nhiên, phải nghĩ một cách công bằng, đối với giáo dục phổ thông, chúng ta tập trung nhiều về giáo dục, vì hướng tới sự toàn diện; đâu đó có một số điểm cần cải thiện thì sẽ tăng cường.
Riêng với đại học, đó là nghề, phải chuyên sâu. Muốn chuyên sâu được thì phải đào tạo. Dù vậy, sinh viên đại học cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện. Bởi vậy công tác học sinh, sinh viên cần tạo môi trường cho sinh viên học các kỹ năng, nhất là những kỹ năng tiếp cận môi trường doanh nghiệp, việc làm.
Vừa qua, ngành Giáo dục thực hiện Đề án 1665, đề án của Thủ tướng Chính phủ về khởi nghiệp sáng tạo cho học sinh, sinh viên; qua 3 năm kết quả rất tốt. Tốt ở đây không hẳn là mỗi năm có khoảng 500-600 đề án, ý tưởng sáng tạo, mà quan trọng là tạo ra một môi trường để cho các em sinh viên trải nghiệm và chia sẻ kinh nghiệm. Đào tạo phải được hiểu theo không chỉ có kiến thức nghề nghiệp mà đó còn là ứng xử và rất nhiều kỹ năng nghề nghiệp.
Tới đây, chúng tôi tiếp tục phát huy những cái được và đã nhìn nhận ra những cái tạm gọi là “trũng”, là yếu để tiếp tục có chính sách chỉ đạo tốt hơn. Cũng có những hạn chế không cần dùng nguồn lực mà chỉ cần mạnh dạn đổi mới cơ chế quản lý, quản trị nhà trường nhằm giải phóng nguồn lực của các trường và xã hội.
Tôi tin rằng, 5 năm tới giáo dục đại học của chúng ta sẽ có nhiều chuyển biến mạnh, còn giáo dục phổ thông cố gắng ổn định và từng bước đi theo hướng toàn diện. Như vậy sẽ tốt dần lên.
Đi sau thì mất cơ hội
Bộ trưởng có đánh giá như nào về quan điểm đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được nêu trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII?
Đây là một quá trình, là tập hợp rất nhiều những ý kiến trí tuệ của những người trong ban soạn thảo và những người trong giới khoa học, các trường đại học.
Theo tôi, đổi mới, sáng tạo là hồn cốt của trường đại học. Khi nói đến khoa học hay nói đến đổi mới, sáng tạo không có nghĩa là phải làm ra cái mới khác cái cũ mà là có phương pháp, tư duy, phương thức để đổi mới. Ở bậc đại học, đổi mới trước hết là trong hoạt động dạy và học, đổi mới trong cả phương thức kết hợp giữa đại học và doanh nghiệp.
Chúng tôi cho rằng thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” được coi là một trong những điểm nhấn tới đây phải thực hiện. Ý tưởng đổi mới sáng tạo không phải mới có nhưng chưa được đúc rút nhiều. Tôi tin rằng, giai đoạn 2021-2026, vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lực lượng trí thức, hướng tới xã hội số, dân trí số sẽ được thúc đẩy rất mạnh.
Chúng ta đi đúng xu hướng, nếu xu hướng thuận thì mọi người sẽ ý thức được và chủ động để bắt nhịp. Nếu nhận thức về xu hướng còn “lừng khừng” thì luôn luôn là người đi sau, mà đã là người đi sau thì không nắm bắt được cơ hội.
Tôi cho rằng giai đoạn tới đây sẽ là thời cơ cho giáo dục Việt Nam cất cánh, với đường hướng rõ ràng, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và chuyển đổi số, đặc biệt là quyết tâm của toàn ngành sẽ tạo ra những chuyển biến rất mạnh.
Tôi lấy ví dụ, hiện nay có nhiều ý kiến băn khoăn về vấn đề thiếu giáo viên, cụ thể là giáo viên tiếng Anh và giáo viên công nghệ thông tin, vì đây sẽ là 2 môn học bắt buộc từ lớp 3. Với tư duy truyền thông thì đúng là thiếu thật, nhưng với tư duy mới là áp dụng công nghệ thông tin thông qua dạy trực tuyến và sử dụng bài giảng theo nguồn tài nguyên số, giáo viên không nhất thiết phải đủ số lượng như dạy học truyền thống.
Một ví dụ nữa, trước đây các phòng thí nghiệm truyền thống phải có máy móc, dụng cụ mô phỏng, giáo cụ, nhưng bây giờ có rất nhiều phòng thí nghiệm ảo, mô phỏng, học sinh và giáo viên đều rất hứng thú với mô hình này.
Như vậy, với quá trình áp dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số mạnh, tài nguyên số được chia sẻ, chất lượng giáo dục sẽ tăng lên, nguồn lực giảm nhiều so với cách truyền thống.
Nhật Nam (thực hiện)