Chùm thơ chữ Hán của Nguyễn Du viết bên mộ Nhạc Phi và đôi điều trăn trở

HỘI NHẬP|| Trên vạn dặm Trung Hoa, trong số những di tích lịch sử nổi tiếng, có lẽ đền thờ Nhạc Phi cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang là di tích để lại cho du khách nhiều ấn tượng khó quên hơn cả. Đặc điểm nổi bật nhất của khu đền là giữa không gian rộng rãi, có khu mộ Nhạc Phi cùng con trai Nhạc Vân, đối diện là bốn bức tượng sắt quỳ nhốt trong cũi sắt… Hơn hai trăm năm trước, Đại thi hào Nguyễn Du đã tới nơi này, để lại 5 bài thơ chữ Hán vịnh sử bất hủ về Nhạc Phi và những kẻ thủ ác hãm hại người anh hùng của đất nước Trung Hoa cổ đại.

Ở đây chỉ xin nói về 4 bài thơ viết về mộ-tượng của Tần Cối và vợ y. Tần Cối trong 18 năm làm Tể tướng đã hãm hại không biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ, khiến cho vương triều Nam Tống trở nên hủ bại. Cho đến tận ngày nay, món bánh quẩy của người Hoa luôn luôn làm từng cặp dính nhau, tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị trói với nhau và ném vào vạc dầu hành tội. Còn các tượng Tần Cối và vợ là Vương Thị (cùng hai tượng Trương Tuấn, Vạn Sĩ Tiết - tay sai Tần Cối) đều được đúc bằng sắt, dáng quỳ, còng tay ngược phía sau cho người qua lại sỉ vả, khạc nhổ.

nhacphi1-1632281297.jpgCổng đền Nhạc Phi ở Hàng Châu, Giang Nam

Thông thường, các tượng hay quần thể tượng được tạo ra, nói theo triết gia Đức Hêghen là “để tô điểm, trang trí cho không gian có tính kiến trúc”(1). Nhưng nếu như Hêghen cho rằng, nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cần/ và đã diễn tả “cái đẹp của lý tưởng”(2), và nghệ thuật “không phải chỉ là những đối tượng để trang trí mà tương ứng với một nhu cầu của sự sống đòi hỏi phải được thỏa mãn”(3), thì ở đây, “nhu cầu của sự sống đòi hỏi phải được thỏa mãn” đó chính là sự căm hờn khinh bỉ cần có chỗ trút bỏ. Và một triết gia người Anh cũng đã khẳng định: “cái đẹp thật sự có thể tìm thấy ngay ở cả những gì xơ xác, đớn đau và hư hoại”(4). Trong văn học nghệ thuật Việt Nam và thế giới cổ kim, không hiếm những hình tượng xấu xa, đáng ghê tởm được đưa vào cấu trúc tác phẩm để làm sự tương phản, đối trọng với cái Đẹp lý tưởng, sự cao thượng. Những luận điểm của hai triết gia trên là một cơ sở tốt để chúng ta thâm nhập sâu thêm vào chùm thơ về mộ-tượng đặc biệt ở đền Nhạc Phi.

TƯỢNG TẦN CỐI 1 (Dịch nghĩa từ chữ Hán)

Cây cối bên điện vua năm nào nay đã bổ làm củi rồi, mà sao tên Cối lại đến dựa dẫm bên mộ Nhạc Vương? Đúng sai đã là chuyện để ngàn năm định luận. Đánh mắng có làm đau đớn gì cái thân giả ấy? Trông có vẻ cứng cáp như thế kia, rõ là một con người sắt thép, mà cớ sao lại khúm núm thờ lũ người Kim? Ai bảo nó không có công trạng gì góp cho đời ? Muôn đời còn có thể lấy nó làm gương cho bọn gian thần phải e sợ.

Nguyễn Du khéo chơi chữ Cối trong điện cối - cây cối bên cung điện và tên Tần Cối. Bắt đầu cho một nguồn cảm hứng mỉa mai cay độc của tác giả cho tới suốt bài và các bài sau: mà sao tên Cối còn đến dựa dẫm bên mộ Nhạc Vương? Bốn bức tượng sắt, mà trung tâm là tượng Tần Cối phải quỳ trước hai ngôi mộ của hai cha con Nhạc Phi, như một sự trừng phạt nghiệt ngã; còn Nguyễn Du thì diễn đạt sự trừng phạt đó bằng câu hỏi mỉa mai gắng kìm sự phẫn nộ: “khước lai y bạng Nhạc Vương phần?” Theo từ điển Thiều Chửu, y bạng (依傍)là nương tựa, nhờ vả. Thực oái oăm, và cũng thực ngu xuẩn, đểu cáng và khốn nạn, kẻ giết người độc ác lại tìm sự nương tựa nơi người chính bị kẻ đó giết hại, và ăn theo sự nổi tiếng của người ấy!

Rồi tác giả làm như khách quan đánh giá về thái độ của người đời đối với Tần Cối: Đúng sai đã là chuyện để ngàn năm định luận. Đánh mắng có làm đau đớn gì cái thân giả ấy? Nguyễn Du làm ra vẻ thương hại, cảm thông trách người đời đã làm một việc vô ích, nhưng đồng thời ông bắt đầu giáng đòn vào mộ-tượng: nó là thân giả, lại là sắt vô tri vô giác, thì mọi sự “đả mạ” - đánh mắng nhục mạ có ảnh hưởng gì tới nó đâu, ngược lại chỉ làm nó thêm trơ lỳ và đáng ghét! Và sự đáng ghét đó cứ lớn dần thành sự tởm lợm, khinh miệt, căm giận khiến tác giả nắm lấy cổ tượng để tra vấn, như nó cũng mang “linh hồn chết” vậy: Trông có vẻ cứng cáp như thế kia, rõ là một con người sắt thép, mà cớ sao lại khúm núm thờ lũ người Kim? 

nhacphi22-1632281367.jpgTranh trong đền miêu tả tình cảm gắn bó của dân chúng với Nhạc Phi

Ba câu hỏi dồn dập ở trên để tác giả đi tới câu hỏi: Ai bảo nó không có công trạng gì góp cho đời? Lập tức ông trả lời: Muôn đời còn có thể lấy nó làm gương cho bọn gian thần phải e sợ! Rõ ràng là Nguyễn Du thấy sự cần thiết của một tấm gương phản đề tày liếp về đạo lý làm người dành cho muôn đời, qua số phận gian thần Tần Cối cả khi sống lẫn khi chết. Nguyễn Du bằng ngôn từ đã nhân thêm lên một biểu tượng vĩnh cửu của sự phi nhân tính, nhằm kêu gọi, phục hồi nhân tính. Điều này chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn ở bài sau:

TƯỢNG TẦN CỐI 2

Gác Cách Thiên đổ nát, lầu ngọc đều đã hoang tàn. Nhưng vẫn còn tên gian phi càn rỡ ở đây. Suốt đời trái tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ. Trong ngục người trung thần khi sống đã phải trào máu, Dưới thềm phạt tội tên gian đã chết, chỉ uổng công! Được cùng với bậc trung thần mà thành bất hủ. Cái phúc lạ lớn tày trời của nó thật quá vô lý.

Ở đây, cây “cối” đã bị bửa ra làm củi, tấm biển đề bốn chữ Nhất Đức Cách Thiên do chính tay vua Tống Huy Tông viết tặng Tần Cối cũng đã mục nát từ lâu. Khi vua Huy Tông bị bắt làm tù binh nước Kim, Tần Cối đã thần phục Kim, bỏ rơi nhà vua trong ngục và bắt giết Nhạc Phi để làm vui lòng nhà Kim (sự Kim nhân). Và tác giả không “lịch sự” để châm biếm nữa (y bạng - nương nhờ), mà thẳng thừng điểm mặt: Nhưng vẫn còn tên gian phi càn rỡ ở đây.

Rồi tác giả khái quát bản chất thực của một kẻ, cả khi sống lẫn khi chết bị thiên hạ phỉ nhổ, bằng hai câu thực vào loại “đỉnh” của thơ ông: Nhất thể tử tâm hoài đại độc/ Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan (Suốt đời trái tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ).

Khi sống, tim nó mang đầy chất độc đã đành, nhưng chết đi, nó vẫn mang đầy chất độc đó trong trái tim chết (tử tâm). Một cách diễn đạt cực tả phanh phui tận cùng cái sự thật khủng khiếp về một kẻ từng mang vóc dáng xương thịt con người khiến người đọc ngàn năm sau phải rùng mình ghê sợ. Nhưng, điều này mới làm nên “thần nhãn” của bài thơ: Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ! Đó là niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi đau của người nghệ nhân khi buộc phải dựng lên cái hình hài kết tinh sự xấu xa. Nỗi oan của người anh hùng đã là một nỗi thương đau lớn, song nỗi oan của cục sắt sống vô tội kia khi phải mang hình dạng của kẻ đáng nguyền rủa, phải chịu sự phỉ báng đánh đập cùng hắn, cũng là một điều thực đáng kể, và bởi vậy, nỗi oan của người anh hùng càng thấm thía xót đau!

Là nghệ sĩ có “cái nhìn thấu suốt tới sáu cõi” và giàu tình thương với vạn vật, Nguyễn Du thấm hiểu ước mong tương thông cùng thế giới của con người để tạo nên sự hài hoà nhu thuận, như Lão Tử nói: "Người theo lẽ đất, đất theo lẽ trời, trời theo lẽ đạo, đạo thuận theo lẽ tự nhiên”. Vì thế, sự tồn tại của của một cục sắt mang nỗi oan kỳ lạ kia là một sự phản tự nhiên tột cùng, phá vỡ một nguyên lý thiêng liêng của Trời Đất: "vạn vật dữ ngã vi nhất" (vạn vật với ta là một). Từ suy tưởng ấy, tác giả luận: Trong ngục người trung thần khi sống đã phải trào máu, Dưới thềm phạt tội tên gian đã chết, chỉ uổng công! Cảm xúc của nhà thơ tựa cũng tới độ phải trào máu căm hận, khiến ông tạm quên đi điều mình vừa nói (là cái mộ-tượng quái dị kia có tác dụng làm gương cho lũ loạn thần), để giây phút đó chỉ thấy sự vô nghĩa, sự uổng công trong hành động trừng phạt của người đời; và thái độ mỉa mai châm biếm sâu cay trở thành một sự phán xử nghiêm khắc: Được cùng với bậc trung thần mà thành bất hủ. Cái phúc lạ lớn tày trời của nó thật quá vô lý! Bởi đó cũng là một sự nhạo báng tự nhiên và thánh thần, một sự vô Đạo!

Cũng với sự căm giận không kém, Nguyễn Du viết về kẻ tòng phạm thủ ác với chồng:

TƯỢNG VƯƠNG THỊ 1

Lưỡi dài ba tấc của thị để làm gì? Khéo cùng với tên quyền thần gian ác kết làm vợ chồng. Cái ngày bắt được cọp chính là ngày trừ được mối lo về sau, Hỏi làm gì cái công ước hẹn uống rượu mừng ở Hoàng Long! Một đời bụng dạ giống hệt như chồng, Nghìn năm hình hài thị làm nhục cho phụ nữ. Suy ngẫm kỹ lại cái việc dựng lên cái án ba chữ: Mạc tu hữu (chẳng cần có), Hẳn là có lời nói riêng của thị trong phòng khuê, chẳng ai biết được.

Bài thơ này là một tiểu ký sự, qua thị kể lại lịch sử: Tống bị Kim xâm lăng, Tần Cối cầm đầu bọn chủ hòa. Nhạc Phi chủ trương đánh, và khi cầm quân đánh Kim, hẹn với tướng sĩ: Thẳng đến Hoàng Long (kinh đô nhà Kim) cùng các ngươi uống chén rượu mừng công. Tần Cối giả lệnh vua, bắt Nhạc Phi hạ ngục. Với lời thì thào bàn bạc của vợ, coi như bắt được cọp rồi, nếu để thoát, e có mối lo về sau, Tần Cối lấy tội danh “không cần có” (mạc tu hữu) mà giết chết hai cha con Nhạc Phi.

Người đọc sẽ hình dung ra tất cả tấn bi kịch đau đớn của người anh hùng qua mấy nét chân dung về Vương Thị. Bắt đầu bằng thiệt trường tam xích! Lưỡi dài ba tấc, nghĩa là gần bằng nửa thân người, được tác giả gắn vào câu hỏi tu từ phiếm chỉ: cánh hà vi - để làm gì thế? Cái logic của câu chữ - hình tượng diễn ra hợp lý và giản dị đến độ không ngờ: để khéo cùng với tên quyền thần gian ác kết làm vợ chồng, ngưu tầm mưu, mã tầm mã!

Nhà thơ hình dung rõ rệt sự hý hửng độc ác của người đàn bà khi người anh hùng bị sa lưới, và ông nhìn thấu tim đen của mụ trong tiếng thở dài kín đáo: Cái ngày bắt được cọp chính là ngày trừ được mối lo về sau, Hỏi làm gì cái công ước hẹn uống rượu mừng ở Hoàng Long!
Rồi ông căm giận đánh giá về “nhân cách sói cái” của thị: Một đời bụng dạ giống hệt như chồng, Nghìn năm hình hài thị làm nhục cho phụ nữ. Sử sách kể Vương Thị đã đem bỏ thuốc độc vào ba trăm hũ ngự tửu ban thưởng cho quân Nhạc Phi, là cố vấn đắc lực của Tần Cối, đưa ra nhiều mưu sâu kế độc… Và tội lỗi lớn nhất của thị là bằng cái lưỡi rắn đó góp phần tạo ra một cái án kinh thiên động địa: Suy ngẫm kỹ lại cái việc dựng lên cái án ba chữ: Mạc tu hữu (chẳng cần có), Hẳn là có lời nói riêng của thị trong phòng khuê, chẳng ai biết được. Dường chưa hả giận, nhà thơ “dựng” lên một “tượng-mộ” thứ hai bằng ngôn từ - bên bức tượng sắt quỳ ô nhục của mụ.

TƯỢNG VƯƠNG THỊ 2

Mưu mô tính kế sâu kín hơn cả chồng, Đúng là bậc nhất trong loại “gà mái gáy sáng”. Sinh ra là đã có có ba tấc lưỡi bất hủ, Lại có cái thân bằng gang thép muôn năm bền vững. Trọn đạo xướng tùy hẳn không có gì phải hối hận, Gian ác như nhau, nên lại càng ăn ý với nhau hơn. Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh, Chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc.

Tác giả nói ngay đến bản chất mưu mô thâm hiểm mà theo ông còn vượt xa chồng, Đúng là bậc nhất trong loại “gà mái gáy sáng”! Chữ Thần Kê lấy từ sách cổ, ý nói gà mái gáy sớm, chỉ người vợ lộng quyền trong nhà. Nhưng lộng quyền trong triều đình, tham dự vào chính sự với trái tim đen ngòm thì quả là một tai họa khủng khiếp đối với quốc gia!

nhacphi3-1632281407.jpgTượng vợ chồng Tần Cối - Vương Thị trong sân đền Nhạc phi

Mấy chữ "tam thốn thiệt" như nhấn mạnh: sinh ra mụ đã có cái lưỡi mang bản chất của thú dữ! Cái lưỡi mềm không xương chứa nọc độc ấy thấm đầy máu của bậc trung thần. Từ cơ sở này, nhà thơ luận: Trọn đạo xướng tùy hẳn không có gì phải hối hận, Gian ác như nhau, nên lại càng ăn ý với nhau. Chú ý cách dùng từ của tác giả: trọn đạo xướng tùy, đạo vợ chồng; nhưng mỉa mai chua xót thay, cái đạo vợ chồng như Khổng học đã dạy “phu phụ hòa kính” - chồng vợ hòa thuận kính trọng nhau mà Hán nho cải thành “phu xướng phụ tùy”- chồng xướng vợ theo, đối với vợ chồng Tần Cối đã biến thành thứ đạo của bọn bất lương “mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường” (Kiều)! Bởi thế, chúng chẳng có gì mà phải hối hận (ưng vô hối), ngược lại, vì bản tính gian ác như nhau, nên lại càng ăn ý với nhau, và chúng có cái hạnh phúc riêng, có tiếng cười hả hê riêng trên số phận đau thương của quốc gia và đồng loại. Và tác giả phác nét vẽ cuối cùng hoàn chỉnh chân dung người đàn bà gian ác: Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh, Chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc!

Sức mạnh của thị là sức mạnh phá hoại, thiêu hủy kết quả từ hàng núi xương máu của những người trung nghĩa, ái quốc; và ảnh hưởng của thị chắc cũng không phải là ít trong sự phá hoại luân thường đạo lý xã hội nhiều thời đại sau. Vì thế, thị cần được/ bị bêu để “làm gương” cho bọn nữ “loạn thần” trước công luận! Thị có tội lớn ngang với chồng mình, nhưng chắc hẳn thị còn đáng trách hơn đối với Nguyễn Du, bởi thị nằm trong giới nhân sinh mà bao giờ ông cũng dành cho những tình cảm thắm thiết: Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! (Truyện Kiều) Đau đớn thay phận đàn bà. Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân! (Văn tế thập loại chúng sinh).

Đối với các nhân vật phản diện, nhất là những kẻ nhuốm đầy máu trung thần nghĩa sĩ và người dân lương thiện, lúc nào Nguyễn Du cũng có thái độ đối kháng, phủ nhận kịch liệt. Đọc ông viết về những kẻ mang trái tim chứa đầy nọc độc như vua Trụ, Tần Thủy Hoàng, Minh Thành Tổ, Tần Cối, Vương Thị, v.v, chúng ta có thể hiểu cái thông điệp ngầm của ông về cái nghịch lý của sự “bất tử”: Cuộc đời hữu hạn này là đáng quý, và một khi con người ta sống tử tế, lương thiện, thì sẽ có khả năng lưu lại trường cửu trong lòng hậu thế, và nếu có tài năng công đức lớn, sẽ được dân xây đền thờ hương khói ngưỡng vọng đời đời; còn ngược lại, tâm địa xấu xa, hành xử như thú dữ với đồng loại thì dân sẽ “đái ngập mồ thấu xương”, việc bị đúc tượng-mồ bằng sắt thô đóng cũi bêu ô nhục cho muôn đời sẽ không chỉ diễn ra ở một ngôi đền Nhạc Phi! Đó cũng là một sự cảnh báo và nhận diện cái ác của Đại thi hào, kêu gọi nhân loại hãy cảnh giác với những kẻ có trái tim đen tối, dù chúng có khoác cái mặt nạ tử tế nhân hậu gì và ở bất cứ cương vị xã hội nào!

Bất chợt chúng tôi liên tưởng tới những điều Hêghen nói về nghệ thuật điêu khắc, ông viết rất hay và kỹ lưỡng tới hàng trăm trang sách về “điêu khắc lý tưởng”(5). Trong các chất liệu điêu khắc cổ điển sử dụng được triết gia Đức liệt kê, không hề thấy ông nhắc đến sắt. Chỉ tới điêu khắc hiện đại và hậu hiện đại người ta mới dùng chất liệu sắt, thép không rỉ; còn thời cổ - trung đại, có lẽ chỉ duy nhất tại Đền Nhạc Phi người ta mới sử dụng sắt thô để làm tượng! Sắt thô có khả năng bền vững với thời gian (thế mà cũng phải đúc đi đúc lại tới hơn chục lần trước sự trút bỏ căm giận của người đời!); và chỉ chất liệu đó mới thể hiện được hết tính chất tàn nhẫn, vô lương, sắt máu của nhân vật trong tư thế quỳ nhục nhã. Nếu Hêghen lúc viết công trình Mỹ học được tới Trung Hoa, đến thăm mấy bức tượng-mộ trên, chắc hẳn ông sẽ có cả một chương sách về chúng “làm ngây ngất” người đọc. Nhưng tiếc thay, ông đã không có dịp tới đó. Và đại thi hào Việt Nam đã thay triết gia phương Tây làm công việc này, bằng những thi phẩm có khả năng tham gia vào cuộc chiến sinh tử thanh tẩy sự xấu xa độc ác và giành giật lại nhân tính cho Con người.
________________________
1. Hêghen. Mỹ học. Phan Ngọc giới thiệu và dịch. Tập 2. Nxb Văn học HN 1999,  tr.209
2. Hêghen. Mỹ học. Sđd, tr.187
3. Hêghen. Mỹ học. Sđd, tr.203
4. Roger Scruton. Dẫn luận về cái đẹp. Thái An dịch. Nxb Hồng Đức, HN 2016, tr. 249 
5. Hêghen. Mỹ học. Sđd (Chương II: Điêu khắc, từ tr.134-tr.234).