Hi sinh vì tổ quốc, giải phóng Mộ Đức: Kính tặng các liệt sỹ đoàn Ba Gia

Mùa hè đỏ lửa Quảng Trị 1972 kết thúc. Sư đoàn 2 cũng tổn thất rất lớn trong chiến dịch Kon Tum(trước đó sư đoàn đã có một khúc khải hoàn ca đại thắng rực rỡ tại Đắc Tô , Tân Cảnh). Trung đoàn thép chủ công(đoàn Ba Gia E1 F2) trở về quê mẹ Quảng Nam, Quảng Ngãi (nơi được thành lập ngày 20/11/1963).

mo-duc-1640748259.jpgBản đồ khu vực tác chiến có núi khoáng, đường sắt nơi đặt 4 khẩu 82 của C17/ E1/F2 và những núi Một , núi Thị cũng là nơi D1E1 đánh.

Đóng quân trên núi Tam Cọp, Ba Tơ tháng 8 năm 1972, chưa hồi sức ổn định,anh em đơn vị lại ba lô súng đạn hành quân về Tam Quan, Bình Định giải quyết đồi 10 (nơi có một đơn vị lính  ngụy Việt Nam cộng hòa đóng giữ). Nghề binh chiến, lại biên chế trong đội hình trung đoàn thép đầy truyền thống anh hùng ,mặc dù đã te tướp tại Kon Tum ,cả trung đoàn hừng hực khí thế anh hùng ra trận (tuổi trẻ nào xá gì!).

Cô giao liên dẫn đường mặt rạng rỡ như bông hồng, len lỏi trong đoàn quân, bẻ từng miếng bánh đa, miệng cười liến láu:

- Mời các anh ăn bánh quê em,đánh chết không hết cái nết bánh đa cùi dừa. Các anh ăn là nhớ mãi Bình Định quê em.

(đến giờ vẫn nhớ,nhớ nhất vẫn là em,cô giao liên dũng cảm xinh xắn vui tính)

Một giờ cùng bánh đa cùi dừa và em thì có lệnh quay lại, lính đồn 10 đã rút chạy.

Về lại Tam Cọp sau thời gian ngắn, đơn vị được lệnh vào chiến dịch X11, cùng toàn quân đánh đều khắp trên các chiến trường để tạo thế cho phái đoàn ta trên bàn Hội Nghị Paris.

Mục tiêu của trung đoàn Ba Gia cùng các đơn vị phối thuộc của sư đoàn là: toàn tuyến đồn bốt của địch từ cầu Sông Vệ đến ngã tư Thạch Trụ dọc theo hai bên quốc độ 1A. Đại đội cối 82 chúng tôi tập trung cả vào hướng mục tiêu núi khoáng thuộc Đức Tân Mộ Đức, chi viện cho công binh đặc công và tiểu đoàn 2.

Cả ngày 15/9 lưng ba lô súng đạn, vai vác cột, kèo, cây, cót (vật liệu làm hầm), mũ gắn khẩu hiệu: HI SINH VÌ TỔ QUỐC GIẢI PHÓNG MỘ ĐỨC.

Trời oi bức, khó chịu vô cùng chúng tôi lại phải len lỏi di chuyển trong rừng cây, bụi rậm để giữ bí mật . Y tá Hải tiêm cho tôi một mũi kí ninh và một mũi B1 mới có thể đi tiếp (lại cơn sốt rét đến). Chập tối cả đơn vị mới đến được vùng giáp danh giữa xã Đức Phú và Đức Tân. Xa xa đã thấy núi khoáng kia rồi , lệnh dừng lại chờ giờ xuất phát.

 Hai  giờ sáng ngày 16/9/1972,  lệnh xuất phát theo lộ tiêu của trinh sát được 10 phút thì giông bão nổi lên, mưa gió quất rát mặt.  Chẳng mấy chốc cánh đồng trước mặt đã trắng băng ngập nước, bì bõm tìm lộ tiêu trôi nổi cánh chứng hướng núi để đi, người trước rước người sau, người sau bán người trước,mãi rồi cũng phải đến nơi tập kết.

Trận địa pháo của C17 đặt trên nền đường sắt bắc nam cũ. Hầm đào đến đâu, nước ngập đến đó. 4 khẩu 82 với đủ cơ số đạn cần thiết phải đặt trên mặt đất. Bộ đội dìm người trong hầm ngập nước để tìm hơi ấm chờ giờ G.

Đúng 5 giờ sáng, ba quả pháo hiệu vạch nền trời bay thẳng lên. Lệnhkhai hỏa đã phát,  cối 82,DKZ,12,7 li nhất loạt dổi lửa lên điểm cao. Chừng 15 phút hỏa lực dừng, bộ binh D2 ào ạt xông lên. Lúc sau đột ngột xuất hiện một con quỷ trên không! Đó  là chiếc tàu Gông hai thân VO2. Nó to lớn đen trũi kềnh càng,bật đèn xanh đỏ nhấp nháy gầm rú vút lên , lao xuống mau lẹ vô cùng. Nó như thao túng cả trận địa, trút đạn 2mili , phóng rocket đầy tự tin xuống trận địa. Chúng tôi  như được chứng kiến một hung thần của thế giới siêu nhiên thực sự chứ không phải cỗ máy do con người điều khiển. Sau nghe nói đó là viên thiếu tá Mỹ ,  một trong hai phi công.

Chừng 5 phút sau những loạt 12,7 li mới bắt đầu lên tiếng. 3 viên...5 viên ...ngập ngừng dè dặt, dần quyết liệt hơn mỗi khi VO2 bổ xuống. …..Cháy rồi!!! Cả trận địa như vỡ òa .Cuối cùng cái con ma - tên hung thần ấy cũng phải khuất phục , bùng cháy như bó đuốc , ngóc lên rồi cắm đầu xuống ruộng nước phía cầu Giắt Dây . Hai phi công bật dù, lạng ra phía biển.

Xạ thủ bấm cò hạ chiếc tàu Gông hôm đó là Phan Huy Thành-anh lính trẻ nhà khu tập thể Nguyễn Công Trứ-Hà Nội thuộc C14 F1 F2.

Chiến dịch X11 còn kéo dài tới qua Tết năm đó cùng với chiến công góp phần thắng lợi cho đoàn ta trên bàn hội nghị Paris được ký ngày 27/1/1973. Anh em trung đoàn hi sinh , thương vong rất nhiều. Người ngã xuống còn mang theo lời thề: HY SINH VÌ TỔ QUỐC! GIẢI PHÓNG MỘ ĐỨC! vào  lòng Đất  Mẹ.

Theo Trái Tim Người Lính