“Hai mươi bốn năm làm nghề dạy học, biết bao nỗi gian truân, tôi vẫn say mê và chung thủy với nghề. Tôi mãn nguyện đã làm tròn lời hứa thiêng liêng với Bác - Người đã dạy tôi yêu ngành, yêu nghề. Tôi lấy đó làm lẽ sống của cuộc đời mình”. Đó là lời cô giáo thương binh Huỳnh Thị Kiển cụt chân phải, đang ngồi bên tôi tâm sự. Khuôn mặt phúc hậu, nụ cười thật hiền với giọng nói nhẹ nhàng nhưng tôi nhận ra trước mắt mình là một người phụ nữ tuyệt vời, đáng khâm phục, kính nể. Cô kể: Quê tôi ở xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là vùng đất nhuốm đầy khói lửa chiến tranh nhưng rất kiên cường, dũng cảm. Năm mười hai tuổi, cái tuổi mà những đứa trẻ khác chỉ biết vui chơi, ăn học, được sống trong sự nuông chiều của cha mẹ, còn riêng tôi thì:
Ngày xưa đất nước phân kỳ
Em theo tiếng gọi quên thì gấm hoa
(Ngô Kha)
Thế là tôi nối gót theo cha chú đi hoạt động cách mạng, bàn chân non trẻ của tôi được các chú, các anh dìu dắt. Năm 1960, tôi vui mừng khôn xiết khi được cấp trên cho vào đội du kích xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn làm liên lạc. Với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và lòng căm thù giặc Mỹ bắn phá quê hương, tôi tham gia nhiều trận đánh, diệt nhiều giặc Mỹ. Niềm sung sướng xen lẫn chút tự hào đã đến với tôi khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trao tặng cho tôi danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú”.
Thuở ấy, bà con quê hương tôi cực lắm. Niềm ước mong của tôi là miền Nam được giải phóng sớm cho dân bớt khổ. Trên đường giao liên, vào cuối năm 1967 tôi bị địch bắt. Để moi tin tức, chúng đã dùng mọi thủ đoạn tra tấn hết sức dã man. Bọn ác ôn đã dùng cưa sắt cắt chân phải của tôi hai lần. Cắn răng chịu đựng trước lưỡi cưa xé thịt, chiếc chân của tôi đã bị chúng cắt lìa khỏi thân thể. Cuối năm 1968 đầu năm 1969, hơn ba tháng bị giam trong lao tù, đồng đội đã cứu tôi thoát nhà tù Hội An, đưa tôi về chiến khu Quảng Nam, rồi chuyển ra miền Bắc để chữa trị. Nằm ở bệnh viện Việt Xô hơn 6 tháng, tôi được chuyển về bệnh viện E (dành cho cán bộ miền Nam), rồi sau đó được đưa ra nước ngoài để làm chân giả. Mỗi lần vết thương đau hay gặp khó khăn trong cuộc sống là tôi nghĩ tới những lần gặp Bác, tôi lại có thêm sức mạnh, có niềm động viên an ủi.
Hai lần gặp Bác:
Lần thứ nhất tôi được gặp Bác là năm 1968 tại Phủ Chủ tịch cùng với đoàn đại biểu anh hùng và dũng sĩ miền Nam ra thăm miền Bắc. Bữa ấy được Bác tặng cho một gói kẹo, một bộ áo quần, và hai cuốn sách “Người tốt việc tốt”. Hai cuốn sách Bác tặng, tôi tặng lại cho các đồng chí cùng đơn vị một cuốn, còn cuốn “Hậu phương thi đua với tiền phương” tôi xem đó là kỷ vật vô giá luôn cất giữ bên mình. Song theo yêu cầu của Nhà bảo tàng thành phố Cần Thơ, tôi đã tặng lại để làm hiện vật trưng bày. Ngày 27/4/1968 tôi vinh dự được kết nạp vào Đảng.
Lần thứ hai tôi vinh dự được gặp Bác đúng vào ngày thành lập Đảng 3/2/1969. Tôi đang nằm điều trị tại bệnh viện Việt-Xô thì có người gọi tôi chuẩn bị đi gặp Bác Hồ. Tôi sung sướng đến phát khóc, đã mấy chục năm rồi mà tôi cứ ngỡ như mới ngày hôm qua. Đây là ngày đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời tôi. Bác gọi tôi đến bên, xoa đầu và hỏi thăm sức khoẻ, hỏi thăm đồng bào, đồng chí trong quê. Nước mắt tôi trào ra, lưỡi tôi líu lại không nói được gì. Chú Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác, và các chú bảo vệ phải dìu tôi ngồi vào ghế.
- Sao gặp Bác cháu lại khóc? Cố nuốt nước mắt, tôi trả lời:
- Thưa Bác, cháu có ngờ đâu lại được gặp Bác như thế này. Sau đó Bác cho tôi ăn cơm chung. Trong bữa cơm, Bác luôn gắp thức ăn cho tôi và an ủi:
- Cháu ăn cho khỏe để sớm lành bệnh.
Bác nhìn chiếc chân giả của tôi và hỏi:
- Chiếc chân này chưa tốt, nên làm quần cháu dễ bị rách phải không?
Rồi Bác quay sang hỏi chú Vũ Kỳ:
- Sắp tới chú định cho cháu đi sửa chân ở đâu? Chú Vũ Kỳ trả lời:
- Thưa Bác, sẽ đưa sang nước bạn Hungari để chữa trị ạ. Bác tỏ ý hài lòng và hỏi tôi:
- Sau này cháu sẽ làm gì? Tôi trả lời:
- Thưa Bác, cháu sẽ đi học sư phạm và sẽ ra dạy học ạ. Tôi ra về mà không ngờ đó là lần cuối cùng tôi được gặp Bác.
Đi chữa vết thương ở nước ngoài:
Giữa năm 1969, khi tôi đang điều trị ở Hà Nội, có nhà báo Hungary tên là Mate Grogy qua Việt Nam công tác, đã gặp và viết về gương chiến đấu của tôi. Hội đồng hoà bình thế giới sau khi đọc bài báo đó đã mời tôi sang Hungari để chữa vết thương cho hoàn chỉnh và đi nói chuyện cho thanh niên học sinh một số nơi nghe về những tấm gương hy sinh oanh liệt, chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Quận ủy Quận 5 Budapest đã cảm kích, xin được đón tôi sang Budapest để điều trị.
Tháng 4/1969, tôi lên đường sang Hungary. Tại đây tôi được một gia đình người Hungari nhận làm con nuôi. Đó chính là nhà báo Mate Grorgy, tác giả cuốn “Đường mòn Hồ Chí Minh”, đã được nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Hữu nghị. Những năm sau đó, nhà báo này vẫn để dành tiền nhuận bút để mời tôi sang an dưỡng và chữa trị vết thương, chỉnh hình cho thật hoàn hảo. Ông đã mất năm 1990, thọ trên 80 tuổi.
Thực hiện lời hứa với Bác:
Sau khi trình bày tâm tư, nguyện vọng với Bác là sẽ học sư phạm để trở thành cô giáo, tôi rất lo, vì mình đã là thương binh hạng 2/4, trình độ văn hoá mới học hết lớp 5. Điều canh cánh bên lòng là làm thế nào để thực hiện lời hứa thiêng liêng đó. Sau khi lành vết thương tôi lao vào học ở trường Bổ túc công nông Giáp Bát, Hà Nội để có trình độ 10/10. Ngày quốc tế lao động 1/5/1971 tôi xây dựng gia đình, chồng tôi là bộ đội đặc công - anh Nguyễn Văn Ngươn quê ở Cần Thơ. Anh cũng là thương binh hạng 3/4 từng chiến đấu chống Pháp, rồi tập kết ra Bắc.
Năm 1963, anh vượt Trường Sơn về Nam chiến đấu. Đoàn quân của anh dừng ở tỉnh Quảng Nam. Một lần về huyện Điện Bàn, anh quen biết và cảm kích gương chiến đấu của cô bé Kiển. Rồi anh Ngươn cũng bị thương trong trận đánh, mất một chân, được đưa ra Hà Nội chữa trị ở Bệnh viện 108. Đó cũng là lúc chị Kiển từ Hungary về an dưỡng ở đây. Chúng tôi yêu nhau rồi tổ chức đám cưới ở ngay Bệnh viện 108, cả cô dâu và chú rể đều bị mất một chân. Một năm sau 1972, đứa con gái đầu lòng Nguyễn Ngọc Thuý của chúng tôi ra đời. Vừa nuôi con vừa đi học bổ túc, biết bao khó khăn đối với hai vợ chồng đều là thương binh. Thế rồi theo câu ca dao muôn đời đưa đẩy:
Lấy chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
Năm 1976 trở về Nam, về Cần Thơ – quê chồng, tôi thi ngay vào khoa Sư phạm trường Đại học Cần Thơ, khoá chuyển tiếp đầu tiên sau ngày giải phóng. Thật hạnh phúc vô cùng, năm ấy tôi đã đậu với điểm khá cao. Bốn năm học Đại học cũng không kém phần khó khăn, gian khổ. Tôi đã làm đủ mọi việc với khả năng của mình để lo cho cuộc sống gia đình và để học Đại học. Vừa nuôi con vừa chống nạng đi học, gian lao vất vả không làm sờn lòng tôi, lúc nào tôi cũng nhớ đến ánh mắt và nụ cười bao dung của Bác động viên tôi. Tôi nhớ lại mấy câu thơ của Tố Hữu trong bài “Sáng tháng năm”:
Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khới
Ta lớn cao lên bay bổng diệu kỳ
Trên đường dài hai cánh đỡ ta đi
Bác Hồ đó là lòng ta yên tĩnh”.
Thế là tôi lại có thêm sức mạnh. Cuối cùng sự cố gắng của tôi cũng được đền đáp. Năm 1979, tôi có hai niềm vui lớn là tốt nghiệp Đại học và sinh cháu thứ hai - Nguyễn Trường Sơn, một cháu trai rất kháu khỉnh. Sau đó tôi được Sở Giáo dục phân công về dạy Văn tại trường THCS An Hoà 2, thành phố Cần Thơ. Thật vô cùng hạnh phúc và sung sướng, vì tôi đã làm tròn lời hứa với Bác: “Cháu làm nghề dạy học”.
Hai mươi bốn năm trên trên bục giảng, tôi luôn nguyện làm một chiến sĩ thầm lặng với sự nghiệp trồng người. Tôi lấy lời Bác dạy trong lá thư cuối cùng Người gửi cho ngành Giáo dục năm học 1968-1969 để làm kim chỉ Nam, phấn đấu: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”. Với đồng lương dạy học và tiền phụ cấp thương binh ít ỏi, tôi và chồng vẫn cố nuôi hai con ăn học đến nơi đến chốn. Không quản khó nhọc, chúng tôi vẫn làm kinh tế phụ để cải thiện cuộc sống. Tôi vay tiền ngân hàng nhà nước nuôi heo. Từ nuôi một con heo nái, tiến đến năm con heo nái. Có khi trong chuồng có tới 30 - 40 con heo con. Bầy heo chóng lớn là nguồn khích lệ, là niềm vui của tôi. Những đêm khuya lúc mọi người yên giấc, đó là thời gian rãnh rỗi cho tôi chăm sóc heo. Khi heo biếng ăn, bệnh tật là nỗi buồn, nỗi lo lớn trong lòng làm tôi nhiều đêm không ngủ.
Học trò đã giành cho tôi những tình cảm chân thành, ấm áp, yêu thương, làm tôi càng yêu đời hơn, dạy giỏi hơn. Tôi cảm thấy thật vui sau mỗi giờ lên lớp. Đôi chân tật nguyền của tôi gây khó khăn không ít trong việc đi lại, lên xuống bục giảng. Khi trái gió trở trời vết thương cứ hành hạ, nhức buốt không thể ngủ yên, nhưng tôi vẫn chịu đựng, vượt qua, không bỏ một buổi dạy nào. Được đồng nghiệp tin yêu, quý mến, học sinh kính trọng là nguồn sức mạnh khích lệ và động viên tôi rất nhiều. Và 5 năm liền tôi đã đạt danh hiệu Giáo viên giỏi cấp tỉnh, cô giáo Giỏi việc trường, đảm việc nhà của ngành Giáo dục - Đào tạo Thành phố Cần Thơ, được tặng Huy chương vì sự nghiệp giáo dục.
Gặt hái kết quả:
Niềm vui lớn của vợ chồng tôi được đền đáp. Hai con tôi hiếu thảo, học giỏi và đã thành đạt. Cháu Thuý tốt nghiệp Đại học Y Dược, hiện nay là Phó trưởng khoa Răng - Hàm - Mặt trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Cháu Sơn tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, hiện là Phó trưởng phòng Ngân hàng Ngoại thương, chi nhánh Cần Thơ. Được sự hỗ trợ của UBND TP. Cần Thơ và sự tích lũy của hai con, đã giúp tôi có được ngôi nhà ở khang trang như hiện nay. Qua quá trình phấn đấu tôi được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương, Bằng khen, Giấy khen các loại như: Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
Năm nay chị Huỳnh Thị Kiển đã bước sang tuổi 70, và đã được 45 năm tuổi đảng. Anh Ngươn – chồng chị, đã mất từ năm 2014, hiện chị đang sống cùng cháu con ở phường An Hòa, quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ. Chị nói trong niềm vui, pha chút bùi ngùi: Trong suốt cuộc đời, tôi không sao quên được hai lần gặp Bác Hồ. Mỗi lần nghĩ đến lời hứa: “Thưa Bác, cháu sẽ đi học sư phạm và đi dạy học ạ”, tự dưng trong lòng tôi lại sáng bừng lên, kỷ niệm xưa ùa về với niềm vui lâng lâng khó tả. Trái tim tôi cứ rung lên sung sướng như muốn thoát khỏi lồng ngực.
Chị là một gương điển hình cho lớp trẻ noi theo. Trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, chị được bình bầu danh hiệu đảng viên xuất sắc của chi bộ cơ sở phường An Hòa, thành phố Cần Thơ. Và một niềm vui lớn là chị được gặp lại người bạn chiến đấu xưa là Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Cảm phục trước tấm gương chiến đấu kiên cường của chị, và kể từ ngày biết chị sống ở Cần Thơ, mỗi lần đi công tác về miền Tây Nam Bộ là Thủ tướng lại đến thăm. Từ 2007 đến nay, Thủ tướng đã bốn lần tới thăm và tặng quà cho chị. Con đường lầy lội vào hẽm nhà chị trước đây, năm 2016 Thủ tướng vào thăm đã nhắc nhở UBND TP Cần Thơ cần đầu tư, nâng cấp, xây dựng lại. Tới nay đường đã rộng 10m, trãi nhựa sáng loáng, đàng hoàng hơn. Ở Cần Thơ từ em bé tới cụ già ai cũng biết chị Kiển, ai cũng ngưỡng mộ khâm phục chị, người con gái Quảng Nam giàu nghị lực và ý chí đang sống trên quê hương thứ hai là TP. Cần Thơ “gạo trắng nước trong” rất giàu hoa trái và trí dũng./.
Theo Trái tim Người lính