Miền rừng yên tĩnh

  Rừng cần yên tĩnh, người Mông đã phải ra đi, bỏ lại khu ruộng đã mất bao công sức khai phá. Người ta tìm vào góc rừng này để hy vọng có cuộc sống tốt hơn. Nhưng họ phải trả lại cho rừng xanh vẻ tự nhiên như vẫn có từ ngàn đời.

  rung-nscc-1254235525-1624358348.gif

 

Cây bằng lăng cao sừng sững, ngạo nghễ vươn lên trời những cánh tay vạm vỡ loang lổ. Những dây leo chỉ bò được tới lưng chừng rồi như bị đuối sức, ngọn buông thõng xuống dưới.

    Chiều về chầm chậm, nhìn từ xa bóng cây như hình người đàn bà đứng nghiêng buông áo. Dưới gốc cây có hòn đá tảng nhẵn thín. Từ trên vách đá dòng nước chảy ra trong vắt theo một thân cây nứa bổ đôi.

   Tia nước rót xuống một ô hình bán nguyệt, nước ngang đầu gối quanh năm không bao giờ cạn, nhìn rõ dưới đáy những hòn đá cuội đủ hình dạng. Một vài con cá trê đen khoan thai bơi lội dưới bến nước.

   Mi Pal cầm chiếc gáo làm bằng nửa quả bầu khô vục xuống nước, thong thả giội lên đôi vai tròn lẳn, tận hưởng cảm giác mát lành thiên nhiên ban tặng lan tỏa khắp thân thể.

   Chị quì gối xuống mặt tảng đá, vòng tay túm lấy nắm tóc, ưỡn khuôn ngực nâu trần quay vun vút, nước trong tóc vung ra xung quanh thành những vòng tròn long lanh ánh cầu vồng.

   Bỗng nghe có tiếng người nói, chị vội vòng tay che ngực. Ngay lúc đó có hai người đàn ông lạ mặt rẽ lối đi về phía lều nhà chị.

   Mi Pal vội thay váy áo đi lên. Đứng dưới sàn chị nghe tiếng nói của ba người đàn ông: Họ bàn với nhau đi “Cổng trời”. Để làm cái gì to lắm, nhiều lắm…

   Chị không biết cổng trời ở đâu, nhưng chị lo có kẻ xấu lại đến rủ chồng chị đi làm bậy hay đi uống rượu: Nó lại làm hư cái đời nó mất thôi. Chị chưa kịp can ngăn đã nghe tiếng chân giậm dịch xuống sàn. Mi Pal ngại nó làm dữ nên chỉ biết im lặng.

   Mi Pal vội về buôn. Đến khuya Ma Pal mới trở về nhà, nó không bị say, cái xà-gạc đã mài sáng trắng ở đâu đó gác bên vách.

   Ngày hôm sau Ma Pal dậy sớm lắm. Anh xách túi gạo ra xe đạp, nói lại với vợ:

   - Tao đi vào trong rừng mấy ngày.

    Mipal lo lắm nhưng chị phải im để cho chồng đi vào rừng.

    Ma Pal đạp xe xuống Ea Đa tìm vào nhà Ma Súc thì đã thấy thằng Ma Sớ đến trước, hai người đang chờ anh. Nó còn mang theo một cái can hai lít rượu. 

   Ba người thong dong đạp xe theo đường đất núi bên xã Ea Sô, thẳng hướng miền rừng xa đi tới. Đường càng xa càng gập ghềnh khó đi. Qua những cơn mưa rừng, trời như trút nước tràn khắp mặt đường xói mòn nền đất, còn trơ đá gộc. Thỉnh thoảng các anh gặp con chồn nâu, gật gật cái đuôi chạy ngang qua đường.

   Tới một đoạn đường bằng gặp hai chiếc xe bò đuôi của người đi đốn củi, có lẽ họ đi từ ngày hôm qua. Hai người tiều phu trên xe ngủ ngon lành, đến nỗi các anh lạch cạch đi qua họ cũng không hay biết. Hai con bò lầm lũi tự động kéo xe đi như cái máy.

   Chừng hơn 10 giờ, ba người đi tới một trạm gác rừng, trên sân đất bằng treo một tấm lưới bóng chuyền đan bằng những sợi dây rừng, tấm lưới đã mục rách thõng xuống một mảng.

   Từ đằng xa các anh đã thấy một anh kiểm lâm mặc đồng phục xanh lá cây. Thấy có người đi vào rừng, anh chậm rãi ra chiếc ba-ri-e làm bằng một cây tre dài ngoẵng, gác lên hai chạc cây chôn xuống mé đường. Ba người dừng lại. Anh kiểm lâm hỏi:

   - Ba anh đi đâu đấy? Ma Súc tiến lên trả lời :

   - Bọn chúng mình đi vào rừng mà, đi kiếm cái măng, con cá ăn thôi, mình không có phá cây đâu.

   Người kiểm lâm nhìn các anh dò xét. Anh cũng muốn tin, nhưng anh phải làm hết phận sự.

   - Theo qui định của trạm, các anh vào rừng không được mang theo dao phát và lửa. Vừa nói anh kiểm lâm vừa đi vào nhà thường trực, ba người theo sau.

   Nhà thường trực của trạm mái ngói thưng gỗ, nền láng xi-măng. Phía góc trái chất một đống gỗ trắc, bên cạnh dựng khẩu súng Aka. Anh trạm trưởng đang ngồi trên ghế, trước mặt kê chiếc bàn vuông, trên mặt bàn chiếc ra-di-ô đang ca nhạc. Thấy có công việc, anh với tay tắt chiếc đài, quay ra nở nụ cười gượng với các anh:

   - Chào các anh!- Người trạm trưởng lên tiếng chào rồi nhón chân với chiếc xắc-cốt bóng lộn, đặt hờ hững trên đùi như có vẻ sẵn sàng nhưng cũng chỉ để làm oai chứ anh không hề đụng chạm đến nó. - Thế này nhé, các anh vào trong rừng cấm, chỉ cho mang theo dao nhỏ, những dao phát phải để lại, vào rừng cũng không được dùng lửa dễ gây cháy rừng của nhà nước.

   Ma Súc đưa lại cho anh trạm trưởng hai xà-gạc và chiếc quẹt ga xanh. Thấy ba người dân tộc thật thà chấp hành qui định, anh tỏ ra tin tưởng:

   - Chiếc bật lửa này tôi linh động cho mang theo nhưng sử dụng phải cẩn thận gây cháy rừng là không được.

     Rời trạm kiểm lâm đi tiếp chừng một tiếng đồng hồ nữa, ba người không theo đường to mà rẽ trái theo một lối mòn nhỏ. Nửa tiếng sau, lối mòn xóa nhòa trong rừng rậm, đường đi không còn mà đi theo hướng, len lỏi dưới những tán lá ken dầy, ánh sáng dịu hẳn, dưới lối đi, lớp lá rụng như một tấm thảm  xốp.

   Ba chiếc xe phải tấp vào trong một bụi le. Khi quay trở ra Ma Pal khựng lại! Trước mặt một con rắn khô mộc thõng chiếc mỏ ngo nghoe ngang tầm vai. Ma Súc giật chiếc xà-gạc duy nhất được mang theo thận trọng tiến lên phạt ngang. Nhanh như tia chớp, con rắn quẫy đuôi biến mất. Ba người đi qua còn ngoái đầu nhìn lại.

   Họ luồn qua những bụi cây rậm rạp. Tới một tán cây rừng khổng lồ, gốc của nó ba người ôm không kín, dưới đất rải rác những quả trám vàng rụng xuống từ trên cao, ngay cạnh rõ ràng vết ủi của con lợn rừng, hình như mới tối hôm qua.

   Ma Pal ngước mắt nhìn lên. Vòm cây cao vòi vọi, tán lá như một chiếc dù. Cao tít trên tầng lá, đàn chim két kêu lên inh ỏi, chợt thoáng có chú khỉ chuyền cành làm đàn chim giật mình bay đi. Ma Súc vội kéo Ma Pal nấp vào bạnh cây, ngay lập tức một chùm quả trên cao rụng xuống rơi ngay nơi anh vừa đứng. Trên đường gân của gốc cây nổi rõ vết sơn đỏ đánh dấu của kiểm lâm.

   Ba người nghỉ chân dưới tán cây.  Ma Súc nói:

   - Còn độ 5 cây số nữa sẽ tới Cổng Trời nhưng mình không đi đến đó đâu mà đi suối Ea Công.

   Ba người tiếp tục cuộc hành trình. Tới một vạt rừng cây song mật, ánh sáng trời đổ xuống chan hòa, bên dưới mênh mông ngồn ngộn những cây song xoắn, vặn lấy nhau chằng chịt. Họ dừng cả lại. Ma Pal còn đang do dự không biết làm thế nào mà đi tiếp được nữa. Trước mặt chỉ toàn là những gai nhọn của một bãi song mênh mông. Ma Súc biết ý các bạn, nó tiến lên và nói:

   - Từng người một thôi, nhảy lên rồi túm vào cái dây này:- Vừa nói nó vừa chỉ cái dây rừng lòng thòng đung dưa trên đầu: - Sau đó đánh đu cho người sang bên kia, phải nhanh tay bắt lấy một dây nữa rồi bò theo một cái cây ngả mà sang, dễ thôi mà.

   Ma Pal thích thú làm theo. Anh nhón chân túm đầu sợi dây rừng liền co chân đạp mạnh, cả người anh treo lơ lửng trôi trên không, lướt qua khoảng rừng thấp, bên dưới toàn là gai và những cuộn dây song quấn quýit. Theo lời chỉ dẫn của Ma Súc anh nhìn ra phía trước, thấy ngay một đoạn song già cong hình lưỡi liềm thì cũng vừa lúc hết đà, anh túm lấy cây song leo sang một thân cây nằm nghiêng, ngọn nó gác lên một cây chò cụt ngọn. Anh bò toài theo thân cây sang mé bên kia. Không quên hất cái dây quay trở về như cũ cho các bạn.

   Bỗng thằng Ma Sớ leo đằng sau kêu lên thất thanh:

   - Ối. ối, tao bị con bọ cạp cắn rồi.

   Một tay nó ôm thân cây, một tay cứ vỗ bồm bộp vào ống quần mồm kêu lên rối rít.

   Nó buông tay, cả người lăn nhào xuống dưới, lọt thỏm xuống một cái khe chằng chịt những cuộn song gai, ở dưới đó nó cũng không ngừng kêu lên đau đớn.

   Ma Pal cũng đã có lần bị con bọ cạp cắn đau váng cả óc, người già còn nói: bọ cạp rừng cắn đau hơn nhiều. Chắc thằng Ma Sớ đau lắm. Anh cùng Ma Súc tụt trở lại, thận trọng đu xuống chỗ thằng Ma Sớ.

   Hàng triệu triệu con kiến vàng thấy động ào ào kéo đến. Tình hình rất nguy hiểm! Bất chấp gai góc hai người vội vã nhắm mắt đội đít thằng Ma Sớ cho nó leo lên trước. Vì có lũ kiến mà thằng Ma Sớ phải cố gắng, chậm trễ sẽ bị đàn kiến bao vây ngay, có khi mù mắt với chúng. Ba người như ba con khỉ, thằng Ma Sớ leo giữa. Họ lần lượt tụt xuống theo một đoạn dây rừng nữa mới thoát khỏi lũ kiến vàng.

   Ba người tiếp tục luồn rừng, gặp mấy tấm gỗ mục của thợ rừng bỏ lại từ lâu, họ tạm dừng chân. Ma Pal và Ma Súc cởi áo rũ cho những con kiến còn đang bám chặt không chịu buông. Còn thằng Ma Sớ rót trong can ra một ít rượu đổ lên lòng bàn tay nơi con bọ cạp chích.

    Ma Súc tiếp tục đi trước dẫn đường, vừa đi nó vừa đánh dấu lối, Ma Pal bảo nó:

   - Có đường nào khác mà về nữa không? Đừng về đường này nữa, tao sợ con kiến.

   Họ đi tiếp tới con suối mà Ma Súc nói là Ea Công.

   Đó chỉ như là một cái khe nhỏ hơn cái suối. Nước trong vắt chảy qua vô vàn những hang hốc trong các ngách đá tối mờ. Đứng trên tảng đá cao còn nghe rõ nước chảy phía dưới, đây đó vương vãi những vỏ ốc lẫn xương cá bầy khỉ ăn bỏ lại. Ma Pal ngắm nhìn cảnh rừng vừa thích thú vừa sợ.

   - Suối này nó chảy về đâu? - Ma Pal hỏi:

   - Nó chảy về Sông Hai. Vừa trả lời Ma Súc vừa hạ cái túi đeo trên vai đặt xuống mặt tảng đá phẳng phiu nằm giữa suối, nó nói tiếp:

   - Mình đến nơi rồi. Tiếng của nó vang vọng vào trong hang đá ven suối nghe cứ oang oang.

   Ngay dưới hòn đá là dòng nước chảy, sát bờ có một hõm sâu vào trong như một cái vòm. 

    Ma Pal hạ túi gạo. Ma Sớ ngồi ủ rũ, tay bị đau khòng lên vai, mặt đỏ vằn như đang uống rượu. Bỗng nhiên đầu nó vươn lên, nhảy dựng như là gặp phải ma:

  - Ối, chúng mày ơi! Có cá, có con cá.- Vừa nói nó lấy tay chỉ xuống khe suối nông choèn. Rõ ràng một con cá chình xám thò đầu ra khỏi hang đang lắc lư theo dòng nước chảy.

   Ma Súc như không nghe thấy tiếng kêu của Ma Sớ, anh ta đang lục lọi trong chiếc túi của mình, lôi ra nào là dây cước, mấy cái lưỡi câu to. Ma Pal cầm lấy xà-gạc ra bờ bên kia chặt hai cây nứa làm cần câu. Vừa đi anh vừa thầm phục: Thằng Ma Súc nó biết nhiều. Khi anh cầm hai chiếc cần câu về tới gần, lại đến lượt Ma Súc kêu lên thất vọng:

   - Bọc mồi, thôi chết! Mất bọc mồi rồi! - Mất bọc mồi có nghĩa là không thể câu được mà như thế chuyến đi thất bại, phải quay về tay trắng.

   Ma Pal nghĩ ngay đến bọc mồi có thể bị rơi chỗ bụi song. Bằng giá nào cũng phải tìm ra mồi câu, không lẽ mồi câu bằng lá cây hay sao? Nghĩ vậy anh cầm lấy xà-gạc: - Để tao quay lại tìm.

   Khi anh chạy tới nơi rừng song, tìm thấy bọc mỳ của Ma Súc gói trong túi ni-non, bên trong không còn lại sót một chút gì. Lũ kiến đói đã ăn hết.

   Ma Pal rùng mình quay trở lại, hai người thất vọng ngồi bên nhau nhìn vào rừng sâu âm u.

    Trong khi đó Ma Sớ đang ngâm bàn tay đau xuống nước. Trong đầu Ma Pal chợt lóe lên, anh nói to:

   - Này, mình lấy con ốc, con dế cũng câu được mà. Ma Súc cũng kịp phụ họa:

   - Con nhện, con dế làm mồi cũng tốt. Thế là vấn đề tưởng chừng đi vào ngõ cụt đã được giải quyết.

   Tìm những con mồi ấy trong rừng không khó.

   Ma Pal mắc con nhện khoang vào đầu lưỡi câu rồi thả hờ hững xuống dòng nước, cái mồi chưa kịp chìm còn đang xoay tròn thì bỗng trong khe đá, một con cá chình phóng ra đồng thời nghe cái “rầm” một cái. Anh chưa kịp trấn tĩnh dây cước trong tích tắc căng ra lôi theo cái cần xuống khe. Ma Pal hấp tấp chạy theo cầm lấy gốc cần câu dựng ngược, kéo vào, Ma Pal ngồi bệt, túm hai tay cong mình đánh đu, ôi thôi! “Vút” đầu cần bật lên trên không nhẹ tênh. Lưỡi câu và con nhện mất tích. Ma Súc không kịp chạy lại giúp nó.

   Ma Pal đứng ngây ra, tay run run vuốt đoạn dây cước còn lại. Ma Súc mắng:

   - Mày không biết câu rồi, cá chình nó khỏe lắm, mày cứ để cho nó chạy mệt mới kéo lên được.

    Vừa nói dứt lời, cần câu của nó cũng bị kéo lạch cạch trên đá. Nó cũng cuống, vội vã chạy về vồ lấy chiếc cần câu. Dây câu căng ra như dây đàn, cọ vào đá. Ma Súc cũng chưa kịp xử lý thế nào thì dây câu đứt tung, hất ngược chiếc cần về đằng sau. Mặt nó nghệt ra như người mất hồn.

   Sau thất bại ban đầu, hai người buộc lại cước lưỡi. Chính lúc này hơn lúc nào hết cho họ ngấm đòn thất bại, để bình tĩnh hơn. Ma Sớ một tay đau giơ lên đầu còn một tay đập những con ốc núi lấy ruột làm mồi.

   Tay Ma Pal run run xiên ruột con ốc đá vào chiếc lưỡi câu, anh lại ra chỗ cũ, ngồi trên hòn đá hy vọng con cá lại đến tìm mồi. Phía đằng kia phút chốc Ma Súc đã kéo lên bờ một con cá lóc to như bắp chân.

   Thằng Ma Sớ đến ngồi cạnh Ma Pal. Hai anh im lặng cùng chờ đợi. Dưới làn nước chảy, anh nhìn rõ cái mồi phất phơ phía dưới như là mời gọi. Đã khá lâu, anh không còn kiên trì được nữa, bèn rủ Ma Sớ ra gốc cây sung phía dưới.

   Gốc cây sung ngã nhoài ra bên ngoài, phía dưới nước chảy xoáy tròn như một cái vụng nhỏ, những quả sung chín quay quay bên trong. Ma Pal thả câu, ngồi chênh vênh trên gốc cây sung còng, anh ngắm nhìn những con gọng vó chạy tung tăng trên mặt nước. Bỗng như thấy đầu cần câu vít xuống. Như một phản xạ tức thì, anh túm hai tay vào cần câu giật mạnh, đầu cần cong lên, dây cước như vướng vào đá không kéo lên được, anh kéo nữa, lôi lên. Ma Pal kinh ngạc nhìn xuống, một con ba ba to như cái chiêng từ từ nổi lên. Cái đầu của nó thụt ra thụt vào. Ma Súc chạy lại. Ba người khó khăn mãi mới lừa được con ba ba lên bờ, sau đó Ma Súc trói lại cho vào bao.

    Ma Súc câu được ba con cá chình to, trên lưng có hàng gai ngược. Sau đó Ma Pal cũng câu được 9 con cá trắng, có hai mắt đỏ, to như bắp ngô. Những con cá này càng động nước chúng càng đến nhiều. Mải mê câu cá, ba người không để ý trời tối ập xuống.

   Trong các khe, lũ ễnh ương uể oải kêu lên kỉn…kỉn. Ba người thu dọn đồ nghề trở lại hòn đá.

   Ma Pal định nhảy xuống tắm nhưng không biết sao anh lại cảm thấy hơi sờ sợ: Biết đâu dưới kia còn có con gì to nó cắn chân thì khốn, nên anh chỉ dám đứng trên bờ vỗ nước lên người, thỉnh thoảng lại giật mình vì tiếng cá đớp mồi.

    Mọi người đi tìm củi khô chất đống giữa vòm đá. Các anh không quên dặn mình: cẩn thẩn kẻo cháy rừng.

   Cháy rừng là một việc tồi tệ không thể tả nổi. Cứ hình dung lửa bắt vào những đám lá khô rụng kia, tình hình sẽ không kiểm soát được, chữa bằng nước ư? Lấy nước bằng cái gì trong khi lửa đang bùng lên.

   Rừng cây xanh tốt, nó che chở cho bao nhiêu con thú sẽ bị cháy, rừng song mật cũng thành tro tàn, phải mất hàng trăm năm người ta mới phục hồi lại được. Buôn làng mình hàng ngàn đời sống với rừng Ma Pal hiểu rừng của mình lắm.

   Ma Pal cúi xuống nhóm lửa, ít phút sau ngọn lửa bùng lên. Ngọn lửa này nó nuôi sống các anh trong rừng, nhưng để lửa lan ra ngoài kia thì lửa cũng thiêu chết các anh.

   Ở trên đời cũng vậy, trong nhiều tình huống, phòng tránh là một lẽ sống có trách nhiệm với cộng đồng, cũng có thể nói là nghệ thuật. Ta còn kiểm soát được thì rất tốt nhưng để cho tình hình không còn trong phạm vi kiểm soát ắt sẽ thành tai họa.

   Giữa khu rừng già, không ai ngờ có một đống lửa ấm áp, một khung cảnh lãng mạn. Ma Pal kịp đan một phên nứa đặt những con cá, nướng trên than hồng. Ma Súc xuống suối cho nước vào hai cái ống lồ ô đổ gạo vào nướng. Phút chốc mùi cá nướng cộng với mùi cơm cháy hòa cùng mùi rừng đại ngàn, thành một mùi hoang dã không đâu có được.

   Không có một bữa rượu thịt nào ngon và sang như thế. Ba con người rừng cầm ba con cá nướng còn nóng hổi, bóc ra chấm với thứ muối ớt chỉ có vùng Ea Kar mới có, họ vừa ăn vừa thổi phù phù. Rượu trong chiếc can được rót ra ba cái ly làm bằng ba ống nứa. Rượu ngà ngà Ma Súc nó nói:

   - Nơi này là của chúng mình nhá, không cho ai biết, nó vào nó phá đấy, nó xì điện, hết cá của mình thì cái suối nó buồn, mình cũng buồn. Mình đi câu cũng lấy ít thôi, lần sau lại đi nhá. Tao thích cái rừng này lắm nhưng tao không ở trong rừng được vì mình phải để cho nó yên tĩnh mà. Rừng che chở cho con người, cho thú rừng và cho cả đất Tây Nguyên ta đấy. Nào một trăm phần trăm nhá!

   Nói xong một tràng diễn thuyết mộc mạc Ma Súc nó hô, thay cho lời hứa hẹn, ba cái ly nứa cụng nhau dốc ngược.

   Ba con người của rừng ăn no cá không động gì tới hai khúc cơm lam dậy mùi thơm phức.

   Xong bữa tiệc rừng ba người ngà ngà vục đầu xuống khe uống nước. Thế rồi ba người chọn ba tư thế tùy ý nằm trên tảng đá ngủ khì, mặc cho lũ muỗi rừng tha hồ làm thịt.

    Nửa đêm thằng Ma Sớ lên cơn sốt, người nó nóng ran mà lại kêu rét run lên cầm cập. Ma Pal lo lắng gọi Ma Súc:

    - Thằng Ma Sớ nó sốt quá, cho nó uống rượu nữa nhá? Ma Súc chửi ngay:

    - Bậy nào, mày cho nó uống nữa nó chết không mang về buôn được đâu.

    Ma Súc đã tỉnh hẳn, anh ngồi dậy, lo lắng nhìn sâu vào rừng khuya thăm thẳm, ngoài kia không có gì hơn một màn đêm. Xa xa trong rừng vắng, vọng về tiếng chó sủa đứt quãng đơn lẻ, anh  cất tiếng để trấn an:

   - Sáng mai ta tìm vào nơi có người Mông ở nhờ họ thôi.

   May sao gần sáng Ma Sớ đỡ sốt nó đi được. Nó nói: - Vì con bọ cạp cắn phát sốt, cả đêm phải cho tay vào nách cặp mới hết. Còn Ma Pal chỉ tin vào rượu, uống vào đến sốt rét còn phải hết nữa là bọ cạp cắn.

    Sáng sớm hôm sau, Ma Súc cầm xà-gạc rẽ lối, cứ hướng đông bắc, phía tiếng con chó sủa đêm qua mà băng tới. Ba người chui rúc qua bao nhiêu là bụi rậm, gai góc, cuối cùng gặp một cái dốc mòn cây đã phủ kín, có lẽ lâu ngày không có người đi lại. Nhìn xuống phía dưới thấp thoáng có những thửa ruộng bỏ hoang.

   Họ đi vòng quanh khu ruộng theo một lối mòn mờ. Hết chỗ vòng không gian như rộng ra, trước mắt các anh có một thung lũng nhỏ, san sát những ruộng bậc thang bỏ cỏ, bên cạnh những nền nhà trơ ra mấy cây cột gỗ cháy xém, xung quanh ngổn ngang phên nứa mái tranh, manh chiếu vất bừa bãi trên đám tro tàn.

   Giữa bãi trống còn duy nhất một mái lều xiêu vẹo. Ba người không ai bảo ai tiến về mái lều.  

    Rừng cần yên tĩnh, người Mông đã phải ra đi, bỏ lại khu ruộng đã mất bao công sức khai phá. Người ta tìm vào góc rừng này để hy vọng có cuộc sống tốt hơn. Nhưng họ phải trả lại cho rừng xanh vẻ tự nhiên như vẫn có từ ngàn đời.

   Ba người bỗng phải khựng lại vì tiếng chó sủa vang lên dữ dội phát ra từ trong căn lều.

   Một con chó mầu xám tro chạy vọt ra, nó quay lưng tựa vào vách nứa và sủa lên ông ổng.

   Chỉ lát sau, con chó vừa sủa, vừa như rên lên những tiếng ư..ử..Cái đuôi của nó vẫy nhẹ. Nó vừa sợ lại như vừa mừng vì thấy những người khách không mời mà đến. Hẳn đây là nhà của chủ nó, nó phải có bổn phận bảo vệ cho dù chỉ còn một cái lều. Khi rời bỏ đất này có lẽ vì một lý do nào đó người ta đã không đem theo được con chó này đi cùng. Có thể nó còn mải vào rừng, khi về nhà chủ nó đã bỏ đi mất rồi. 

   - Bắt lấy nó! - Ma Súc hô lên. Con chó nhanh chân tót ra phía sau lều, lẩn vào trong một bụi rậm.

     Ba người cùng tò mò nhìn vào trong lều. Ở giữa có cái chõng tre mối đã xông rệu rã, dưới gầm một khoảng đất trũng hình lòng chảo, bên cạnh vương vãi những xác con cua đá lông chuột và con kỳ nhông con chó đang ăn dở. Mùi ẩm mốc bốc lên từ đó.

     Ma Pal nhìn ra lùm cây, anh thấy con chó đáng thương đang ngồi chống chân nhìn theo ba người lạ. Ma Súc và Ma Sớ không còn để ý tới một con chó rừng nữa. Còn lại một mình với con chó anh đi lại gần thử gọi:

    - Ki, Ki, con chó nghiêng đầu im lặng. Anh lại cất tiếng gọi:

    - Sầu, sầu. Vừa gọi anh vừa từ từ tiến lại gần hơn vẫy vẫy ngón tay, cố tỏ ra thân thiện.

    Lạ thay con chó không bỏ chạy, cũng không sủa, anh liền ngồi xuống. Nó cũng hạ thấp, nhích thân mình lại gần với anh, miệng rên lên những tiếng kêu khe khẽ.

   Bàn tay Ma Pal âu yếm vuốt nhẹ lên đầu con vật, nó cũng nồng nhiệt liếm lên tay anh nóng hổi.

   Đêm đêm con chó này vẫn sủa lên trời, nó nhớ về người chủ của mình, tiếng kêu của nó rơi vào tuyệt vọng.

    Nếu như Ma Pal đem nó đi theo mình về buôn thì sao nhỉ! Nhưng theo anh về liệu anh có bảo vệ được cho nó hay không, điều đó anh không chắc. Thôi hãy cứ để con chó trong rừng như nó đã sống qua những ngày cô độc, nó sẽ thành con chó hoang, rừng xanh che chở cho nó.

    Nghĩ vậy anh hạ hai khúc cơm lam đi vào trong lều, con chó ngoan ngoãn theo anh. Tay Ma Pal vỗ vào hai khúc cơm như muốn nói: - Tao để lại cho mày, ăn hết mày chạy vào rừng, rừng xanh sẽ nuôi sống mày. Con chó như hiểu ý anh, nó nằm phủ phục dưới nền đất, đôi mắt buồn rười rượi. Thương hại anh vuốt lên đầu nó một lần cuối rồi bước chân ra khỏi lều. Hình như nó cũng biết thân phận của mình nên không đi theo anh nữa. Cái đuôi khẽ ve vẩy như lời chào biệt, một con người tốt bụng.

   Khi Ma Pal ra tới bìa rừng, anh nhìn lại, con chó đã ra đứng trước cửa lều rầu rĩ nhìn theo cho đến khi anh khuất vào trong rừng cây.

    Ba người tiếp tục đi theo vết xe đầu ngang in mờ trên lối mòn. Chừng ba cây số nữa Ma Súc dẫn mọi người bỏ con đường mòn rẽ lối đi tới nơi để xe đạp về buôn.

    Chiều hôm đó Ma Pal về nhà, kết thúc sớm hơn một ngày. Trước ngõ nhà anh có hàng cột xi-măng mới dựng thẳng hàng. Buôn mình sắp có điện, Ma Pal nghĩ vui trong bụng lắm.

   Ma Pal đi tới nhà anh Trung, nó làm cán bộ nó biết. Anh kể lại cuộc đi trong rừng. Anh Trung nói:

   - Ma Pal thấy rừng có thích không? Trong rừng không có chim, không có thú thì buồn lắm, cũng như cái ao nhà mình không có cá cũng buồn. Mình biết giữ rừng như bao đời nay thì cuộc sống vui lắm.

    Người Mông vào đây sinh sống, người ta nghe theo cán bộ phải rời đi nơi khác cho miền rừng của mình yên tĩnh. Hôm nào Ma Pal cho mình đi thăm rừng nhé./.

 

Theo Chuyện làng quê