Nhà báo - Nhà thơ Dương Đức Quảng qua đời ở tuổi 75

Theo tin từ gia đình, Nhà báo - Nhà thơ Dương Đức Quảng qua đời sáng sớm nay (19/1/2020), đúng ngày sinh lần thứ 75 của ông.

Nhà báo Dương Đức Quảng tại chiến trường Quảng Đà (1972)

Nhà báo, Nhà thơ Dương Đức Quảng quê quán ở Phú Thọ, sinh ra lớn lên ở Hà Nội, là một trong số những phóng viên chiến trường xông xáo, nhiệt huyết những năm chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Ông là một nhà báo đã hơn 50 năm miệt mài với…chữ; một người đã sống và làm việc giữa hai thời kỳ của đất nước chiến tranh và hòa bình! Gắn bó với nghề báo, ông cho rằng, chính những tháng ngày bom đạn chiến tranh đã khiến ông yêu và đam mê nghề báo trong suốt cuộc đời, dẫu nay bầu trời không còn tiếng súng.

Theo đánh giá của nhiều đồng nghiệp được đăng tải trên phương tiện truyền thông: Nhà báo Dương Đức Quảng là một người hiếm có. Ông sẵn sàng từ chối chức tước và không màng danh lợi…”. Tìm hiểu nhiều hơn về ông, tôi biết nhiều điều về một nhà báo không thích ồn ã, lúc nào cũng chỉ muốn khuất mình giữa chốn đông người như điều ông đã gửi gắm vào bài thơ Khuất: “…Khuất sau lưng người khác/Dễ gì tìm được nhau/Khuất sau từng con chữ/Biết bao điều thẳm sâu…”.

Ông từng là phóng viên Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP) tại chiến trường khu V vào những năm chống Mỹ ác liệt. Năm 1966, đang học năm thứ tư ở Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội), chàng sinh viên Hà Nội Dương Đức Quảng và một số bạn học cùng lớp được Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) chọn về học lớp đào tạo phóng viên chiến trường, để rồi sau đó một năm, từ năm 1967 đến hết thời gian chống Mỹ, 8 năm liền làm phóng viên thường trú tại các chiến trường ác liệt nhất miền Bắc lúc bấy giờ là Quảng Bình, Vĩnh Linh, rồi đi B làm phóng viên Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP) ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, đi hết cuộc chiến tranh, cho tới ngày Bắc Nam sum họp một nhà.

Nhắc đến một kỉ niệm làm báo ở chiến trưởng, nhà báo Dương Đức Quảng kể lại: Tôi là phóng viên viết bài đầu tiên về giải phóng thị xã Quảng Ngãi đêm 24 rạng ngày 25/3 năm 1975, khi theo chân bộ đội địa phương và mũi xung kích vào giải phóng thị xã Quảng Ngãi. Tôi cũng là phóng viên đầu tiên của Thông tấn xã về Sơn Mỹ, nơi đã diễn ra cuộc thảm sát tàn khốc 504 dân thường của quân Mỹ để viết bài về mảnh đất đau thương này sau ngày giải phóng. Sau ngày kết thúc chiến tranh 30/4/1975, một người tìm đến tôi, cho biết: Anh quê Sơn Mỹ, dạy học ngoài miền Bắc. Sau vụ thảm sát Sơn Mỹ anh không hề có tin tức gì của gia đình, không biết mẹ anh còn sống hay đã mất. Ngay sau ngày giải phóng Quảng Ngãi, anh được đọc bài báo Về Sơn Mỹ giải phóng của tôi in trên báo Nhân Dân, trong đó tôi nhắc đến tên mẹ anh, anh mới biết mẹ anh còn sống. Anh cảm ơn tôi vì tôi là người đầu tiên thông báo cho anh tin vui đó sau bao nhiêu năm anh không nhận được tin tức của gia đình. Tôi thật vui và cảm động, hiểu rằng hạnh phúc của nhà báo chính là có những phút giây như thế.

 Nhớ lại những ngày làm báo thời chiến tranh ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhà báo Dương Đức Quảng luôn nhắc đến các đồng chí, đồng nghiệp đã ngã xuống trên vùng đất này. Ông là một trong những nhà báo đầu tiên trên chiến trường Quảng Ngãi trước đây tổ chức việc viết báo, quay phim, đưa câu chuyện về sự trở về của cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm trở thành một sự kiện truyền thông lớn nhất trong năm 2005. Sau chiến tranh,  ông công tác tại TTXVN, rồi chuyển  sang Văn phòng Chính phủ đảm nhiệm chức Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm thông tin báo chí, sau đó ông được mời về làm Trưởng ban Thông tin Truyền thông của Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam và sau đó ông nghỉ ngơi để có thời gian vui vầy cùng vợ, các con, các cháu.

Nhưng dù ở vị trí nào, ông vẫn làm báo, vẫn cùng đồng đội của mình đau đáu nỗi niềm kiếm tìm hài cốt những người đồng chí, đồng nghiệp đã hy sinh. Năm 2011, sau gần 40 năm day dứt và trăn trở, đồng chí, đồng nghiệp của ông ở Ban Tuyên huấn tỉnh Quảng Đà (Quảng Nam – Đà Nẵng trước đây) đã đưa được hài cốt của 5 liệt sĩ, trong đó có hai liệt sĩ nhà báo ở cùng Thông tấn xã Giải phóng Quảng Đà với ông về nơi yên nghỉ cuối cùng. Nhà báo Dương Đức Quảng kể lại câu chuyện về đồng đội trong nghẹn ngào: “Hôm ấy là một ngày gần cuối tháng 5/1972, trong một hang đá trên núi Hòn Tàu, thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Đà, nơi đặt điện đài đồng thời là chỗ ở của Tổ phóng viên TTXGP Quảng Đà chúng tôi, có một cuộc “liên hoan” nho nhỏ, chỉ là vài nắm mì chay với một chút cà phê loãng để tiễn một người xuống đồng bằng tham gia chiến dịch và một người ra Bắc chữa bệnh. Người xuống đồng bằng là tôi, Tổ trưởng Tổ phóng viên TTXGP Quảng Đà. Còn người ra Bắc chữa bệnh là anh Hoàng Quốc Thăng, điện báo viên, quê Hải Dương, vào chiến trường từ năm 1964, bị ốm đau, bệnh tật, sức khỏe kém, đang chờ ngày lên đường trở về hậu phương. Ngoài tôi và anh Thăng, Tổ phóng viên TTXGP Quảng Đà còn có anh Võ Công Thu, quê Quảng Nam, là điện báo viên. Đêm ấy, trước khi chia tay để tôi theo giao liên xuống đồng bằng, anh Thăng ôm chặt tôi dặn dò: “Chỉ còn vài ba ngày nữa tôi sẽ được ra Bắc. Ra đến Hà Nội thế nào tôi cũng đến thăm gia đình anh, chuyển quà của ông tới ông cụ thân sinh. Còn anh, xuống dưới đó nhớ cẩn thận và giữ gìn để sớm về với anh em…”. Món quà mà anh Thăng nói sẽ chuyển ngay tới bố tôi khi ra tới Hà Nội là một tấm vải dù của Mỹ tôi được một chiến sĩ Quân Giải phóng tặng sau một đợt tham gia chiến dịch, nay tôi nhờ anh Thăng mang ra Bắc tặng bố tôi, kèm theo bức thư tôi viết, báo tin tôi vẫn còn sống, gia đình yên tâm. Tôi cũng hiểu ý anh Thăng dặn dò phải cẩn thận và giữ gìn, vì trong những năm trước đó, mỗi năm thường có một hai nhà báo hy sinh trên mảnh đất này, còn từ đầu năm đến tháng 5/1972 chưa có nhà báo nào hy sinh! Tôi không ngờ, sau buổi chia tay đó, mãi mãi tôi không còn được gặp lại anh Hoàng Quốc Thăng, anh Võ Công Thu và một số đồng chí, đồng nghiệp khác”. Ông xúc động và bật khóc khi thấy lại tấm vải dù của mình gửi anh Hoàng Quốc Thăng, người bạn đồng nghiệp mang ra Bắc tặng gia đình, đã không ra được miền Bắc, mà phải nằm lại với anh Thăng trong hang đá sau trận bom rải thảm B52 của Mỹ xuống căn cứ Hòn Tàu đêm 22 rạng ngày 23/5/1972!

Trải qua không ít những nỗi đau, nỗi mất mát trong chiến tranh, thời bình, lúc nào ông cũng đau đáu nghĩ đến những công việc tri ân, nhớ về đồng đội, đồng nghiệp một thời. Cầm trên tay cuốn sách “Tri ân Nhà báo – Liệt sỹ”, tôi đọc bài viết của ông đầy xúc động về hai nhà báo- liệt sỹ hy sinh tại chiến trường miền Nam là Phạm Vũ Bình và Vũ Phạm Chuân. Những trang viết mà ở đó không chỉ có những sự kiện sôi động của một thời đạn lửa mà còn thấy cả tấm lòng ông dành cho những đồng nghiệp, đồng chí đã nằm lại nơi chiến trường. Gắn bó với nghề báo suốt gần 45 năm, ông vẫn cho rằng, chính những tháng ngày bom đạn chiến tranh đã khiến ông yêu và đam mê nghề báo trong suốt cuộc đời, dẫu nay bầu trời không còn tiếng súng. Thế nên, hơn 70 tuổi, tôi vẫn thấy nhà báo Dương Đức Quảng miệt mài viết, miệt mài làm việc.

Cách đây mấy năm khi đọc một bài báo viết về sự hy sinh của hơn 200 chiến sĩ Trung đoàn 207 Quân khu 8, phần lớn là bộ đội miền Bắc, sinh viên các trường đại học nhập ngũ vào chiến trường, ở ấp Đá Biên, Long An năm 1973, nhưng nay phần lớn vẫn chưa tìm được hài cốt và cũng chưa có nơi xứng đáng thờ phụng và tưởng niệm anh em, nhà báo Dương Đức Quảng rất xúc động. Ông đã đề xuất và được Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam chấp thuận, ủng hộ tài trợ 5 tỷ đồng để xây Nhà bia ghi danh và tưởng niệm các liệt sĩ tại ấp Đá Biên. Và sau này, hầu như năm nào ông cố gắng trở lại nơi đây thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ. Có lẽ, những việc như thế làm dịu bớt nỗi đau trong lòng ông mỗi khi nghĩ tới các đồng chí, đồng nghiệp của mình đã hy sinh. “Soi vào mắt đồng đội/Để thấy mình hôm nay”! Ông đã viết như thế về đồng chí, đồng nghiệp và về chính mình trong cuộc sống hôm nay.

Cơn bạo bệnh đã cướp đi rất nhanh Nhà báo - Nhà thơ Dương Đức Quảng - một trái tim đa cảm, giàu nghị lực, một con người nghiêm cẩn, thận trọng trong công việc. 

 

BA BÀI THƠ CỦA DƯƠNG ĐỨC QUẢNG
Dương Đức Quảng

Cứ tưởng
 

Cứ tưởng nước chảy xiết
Là không dám lội qua
Cứ tưởng lời ly biệt
Là mãi mãi cách xa
 
Cứ tưởng đèn vụt tắt
Là đêm tối mênh mông
Cứ tưởng lời hờn giận
Là làm ai mềm lòng
 
Cứ tưởng đầu chưa bạc
Là vẫn còn trẻ trung
Cứ tưởng gieo hạt tốt
Là lúa vàng cánh đồng…
 
Đâu biết dưới nước xiết
Là hòn đá nâng chân
Đâu biết lời ly biệt
Là tình yêu đến gần
 
Đâu biết đèn vụt tắt
Là sao sáng đầy trời
Đâu biết lời hờn giận
Là chia xa em, tôi
 
Đâu biết đầu chưa bạc
Lòng băng giá mất rồi
Đâu biết gieo hạt tốt
Trên đất cằn xa xôi…
 
Cứ tưởng, cứ tưởng mãi
Ai khờ khạo như tôi?

Một chút
 
Một chút thôi
có nghĩa lý gì đâu
như hạt cát
chẳng làm nên sa mạc
như giọt nước
chẳng làm nên biển biếc
 
Một chút thôi
có nghĩa lý gì đâu.
 
Một chút thôi
có nghĩa lý gì đâu
mỗi lần gặp
em nhạt hoà đi một chút
mỗi lần nói
em giận hờn hơn một chút
 
Một chút thôi
có nghĩa lý gì đâu.
 
Nước cứ chảy
đá cứ mòn
mỗi ngày thêm một chút
 
Một chút thôi
có nghĩa lý gì đâu.
 
Chẳng ai biết hình hài của một chút
tôi vô tình để một chút qua đi
cho đến lúc giật mình
thảng thốt:
Một chút thôi
lửa cháy hết
còn gì?!
 
Thử khác mình
 
Có bao giờ ta thử khác ta chưa
Thử đi trên dây như người làm xiếc
Thử biếng nhác như người trốn việc
Thử bỏ nhà đi làm một gã rong chơi.
 
Cũng đôi lần tôi thử khác tôi
Thử tìm vận may trong trò đen đỏ
Thử tìm thú vui trong muôn ngàn cám dỗ
Thử khác mình một chút xem sao.
 
Thử say sóng để được biết nôn nao
Người đi biển sá gì sóng lớn
Thử lỡ hẹn để nghe lời hờn giận
Thử không về xem còn nhớ ngõ quen.
 
Thử bán buôn xem có kiếm được tiền
Cầm bút mãi tự thấy mình tẻ nhạt
Thử vẽ mặt bôi râu cho thật khác
Xem bạn bè còn nhận ra không.
 
Cũng có lần thử đứng trước đám đông
Miệng nói vậy mà không phải vậy
Thử lội xuống bùn để tự mình được thấy
Ngan ngát hương sen toả khắp mặt hồ.
 
Cuộc sống quanh ta như một bàn cờ
Bày trước mặt đường đi trăm nẻo
Thử một lần đổi xe lấy pháo
Tàn cuộc cờ pháo liệu có hơn xe?
 
Rồi một lần chợt tỉnh cơn mê
Thử khác mình mới thấy mình ngớ ngẩn
Ngay trước mặt là vực sâu thăm thẳm
Thử một lần trượt ngã, dám không đây?