Pháo gánh (Ba Tơ tháng 11/1972)

Đào giang rộng hai tay, khẩu AK đeo thõng trước ngực, thân hình đồ sộ của nó cùng chiếc ba lô lép xẹp ào ào lao xuống dốc vọt lên trước chúng tôi, miệng ngân nga :

ccb-rong-1640582093.jpgCựu chiến binh Nguyễn Đình Rồng

Đào giang rộng hai tay, khẩu AK đeo thõng trước ngực, thân hình đồ sộ của nó cùng chiếc ba lô lép xẹp ào ào lao xuống dốc vọt lên trước chúng tôi, miệng ngân nga :

- Ôi cuộc đời cách mạng từ đây.

Anh Luyện nhìn theo trợn tròn mắt:

-Thằng này bị điên mất rồi!

Vậy mà đã trên dưới 5 chục năm rồi...

 Ngày đó, anh em tôi là đơn vị hỏa lực trợ chiến, trực thuộc đoàn BAZA nông trường 2 (C17.E1.F2.QK5). Đoàn Hà Nội chúng tôi vào đơn vị tháng 8/1970 giờ đã được coi là nòng cốt của trung đoàn. Đào, Thúy, Việt, Lung, Giản, Thái cùng quê Thanh Hóa vào đơn vị được gần năm. 

Chân ướt chân ráo,chúng tôi tất tả hành quân cả đêm từ Mộ Đức bật ngược trở lại Ba Tơ đứng trên đường năm cụt (đường Trần Lệ Xuân). Trời  cuối năm tối đen như mực,gió thổi ào ào , sương rơi lạnh buốt, anh Cường B trưởng nói với tôi như cảnh báo:

-Lạnh lưng hở sườn lắm đấy Rồng ạ!

 Tôi cũng thấy ghê ghê rợn rợn.Thằng Giản nghe lỏm được đến nói ngay :

-Lạnh lưng hở sườn lắm tôi về đây anh Cường ơi!

(cái thằng này thật thà quá – tôi nghĩ vậy).

  Mò mẫm vòng đi vòng lại mãi trinh sát trung đoàn cũng đưa được trung đội với 2 khẩu cối 82 ly của anh em chúng tôi tới trận địa. Nơi đặt pháo được chia làm 2: khẩu của chúng tôi đặt trên đỉnh 600; khẩu của anh Thỏa (anh Thỏa lính cũ vào năm 1967) lùi xuống cách 300m, đặt trên đỉnh 400 (theo thế pháo gánh nhằm tương tác hỗ trợ nhau). 600 và 400 được nối với nhau bởi 1 dải yên ngựa, cây lúp xúp, cỏ mọc xanh biếc.

  Bình minh cũng đã ửng hồng phía biển Mộ Đức, nơi chúng tôi đã chiến đấu ở đó cả tháng từ hôm 16 tháng 9 năm 1972. Thung lũng bên trái bạt ngàn lau sậy, sim, mua vẫn vọng lên tiếng khóc, tiếng gào của người lính nào đó, anh Luyện nói đó là bọn trinh sát bắn nhầm nhau chết mất 1 người.

  Mục tiêu phía trước khẩu của chúng tôi là dãy Nước Liên như giăng thành, cao vời vợi, lù lù trước mặt; sau nó là quận lị Ba Tơ mà Lữ 52 xơi không nổi cả tháng vừa qua, lần này là E1 - thiếu chúng tôi chắc phải “nuốt” trôi thôi. Các D1, D2, D3 cũng đã triển khai theo đúng kế hoạch, vậy mà tới cả chục ngày rồi chưa xong. Hầm tôi ngay tại đường mòn, lính ra trước về sau đều qua đây. Tối xuống là lại vài cáng thương, cáng tử từ phía trước đưa về.

  Điểm cao 600 tròn trịa như mâm xôi, hầm  pháo đặt giữa, 3 góc là 3 hầm cảnh giới. Hầm tôi phía sau, trước là hầm của Phúc – Tuân – Đào; bên phải là Linh – Giảng. Anh Luyện – đại trưởng trực tiếp ở hầm pháo. Ngày chốt cố định ở đây bắn theo yêu cầu của bộ binh. Tối lại vác pháo, đeo đạn mò mẫm theo họ, cực khổ vô cùng, đói rét, căng thẳng, mệt mỏi rã rời, lau lách sương đêm cứa rát buốt chân tay mà chưa đụng địch lần nào. Nghe nói lính ở đây toàn người dân tộc địa phương giỏi luồn lách đi rừng lắm.

  Một buổi sáng như thường lệ, anh em dậy sớm, thay lá ngụy trang, sửa sang hầm hố. Thằng Giảng ôm bó lá về, thủng thẳng:

- Anh Linh ơi ngoài kia có dây điện.

 Linh trả lời :

-Mày có điên không. Dây điện nào ở đây?

 (Ôi ông Linh này sai lầm lớn, nó dải dây, đặt mìn Clemo tới sát rồi).

  Trời đã sáng mờ mờ, sương tan dần, vừa dở nắm cơm ra đã xoẹt… xoẹt…. oành… Thôi chết, đạn cối ở đâu tương vào mình rồi. Nhìn về phía sau, anh em khẩu anh Thỏa lố nhố khua tay chỉ trỏ ra hiệu. Lại xoèn xoẹt… oành oành… Giờ thì ngay cạnh hầm pháo, rồi thì lựu đạn AR15, M79, mìn Clemo, đạn cối loạn xạ cầy xới, phủ kín trận địa.

Chợt tiếng anh Luyện giõng dạc :

- B40 lên trước chờ lệnh mới được bắn!

(Bố này đọc lệnh khai tử cho mình rồi. Đạn cối còn đang phủ kín đồi, 2 khẩu chứ có phải 1 đâu mà lên phía trước vận động cả trăm mét). Thôi đành xách khẩu B40 bỏ lại cả giỏ đạn, nhìn lên vừa thấy chấm đen vút từ hầm pháo lên là tôi vọt lên. Hy vọng khoảng cách giữa các quả đạn chạm đất mình sẽ thoát. Nhờ Chúa phù hộ. Ngang qua hầm pháo chỉ thấy Nhân đứng thả đạn; Dũng quỳ gối đưa đạn. Nòng pháo dựng đứng. Không thấy anh Luyện đâu. Chạy được qua 100 mét, tới hầm tiền tiêu, tôi thấy thằng Phúc la lối :

-Ôi Rồng ơi, nó ném cái gì đen đen nhiều lắm. Tôi ấn đầu nó xuống, vừa nói :

- Lựu đạn đấy, nếu nó ném vào thì bốc vứt ra”. Bọn thằng Phúc, thằng Đào, thằng Tuân thấy tôi đến chắc mừng lắm. Rồi chỉ còn lại tiếng đạn cối xoèn xoẹt, oành oành, tản mát nổ chát chúa một lúc thì yên ắng trở lại. Tất cả vẫn chưa hoàn hồn, ngồi yên như thóc trong mỗi hầm chờ động tĩnh tiếp theo. Bên ta nguyên vẹn, bên địch không biết chết bao nhiêu. Trận địa khe suối phía tả luy âm, phía hầm Phúc thì lạy giời tử khí bốc lên ngùn ngụt. Mấy chục quả cối nện vào cái đám người trần mắt thịt lồ lộ trên mặt đất, dưới khe thì còn đâu đường về.

  Ba hôm sau đến lượt tôi về bếp lấy cơm. Anh Dón – anh nuôi người Mường vừa gặp tôi mò vào bếp đã toáng lên xua đuổi :

-Người mày toàn mùi người chết, ra suối tắm đi.

  Rồi quận lị Ba Tơ cũng được giải phóng. Chúng tôi thu xếp rời 600 về 400 với anh em khẩu anh Thỏa (trùng phùng đoàn viên). Giữa ban ngày, trời của ta, đất của ta, mới thong thả ngắm lại 600, 400, dông yên ngựa đẹp mà thơ mộng quá. Thảm cỏ xanh rờn, sim mua khe khẽ lay động như nâng bước chân.

  Anh em 2 khẩu mừng vui khôn siết, ôm nhau hỉ hả. Anh Thỏa nói :

-Tao vừa bảo lính ăn cơm thì thằng Thạch nó hô địch tràn ngập 600 rồi các ông ơi. Nhìn lên chúng mày thì thấy đen ngòm, có tới bốn năm chục thằng. Tao hô thả nhanh 1 quả đi, muốn vào đâu thì vào rồi chỉnh tầm hướng vào dần.

  Thì ra địch đã để mắt tới khẩu đội trên 600 từ lâu rồi. Giờ mới là lúc hốt gọn chúng tôi. Mìn Clemo giăng sẵn chờ sáng là úp. Chỉ lạ là suốt gần tháng trời mà không thấy phi cơ, pháo hạ thăm hỏi lần nào.

  Ôi pháo gánh, đồng đội, thêm các quý nhân phù trợ mà anh em tôi mới có ngày về.

  Sau này tôi hỏi Dũng :

-Lúc tôi vọt qua hầm không thấy anh Luyện đâu.

Dũng trả lời :

-Đang lau súng ngắn trong ngách chữ A.

 Trận đó anh Luyện được tặng huân chương lên chức về ban pháo Trung đoàn.

 2/9/1976 tôi được ra quân .May mắn Dũng còn giữ được danh sách đơn vị với đầy đủ thông tin về quê  quán từng người.Chúng tôi lại miệt mài đạp xe lọ mọ đi nơi gần,thư từ nơi xa, thời gian ngắn đã tìm lại đầy đủ anh em của mình .Thật hạnh phúc bên nhau trong mỗi chuyến du lịch đồng đội vào dịp 29/3 hàng năm(ngày chúng tôi vào giải phóng ĐÀ NẴNG ).

  Noel 2021.

  Thân tặng anh em Đại đội súng cối 82 C17E1F2.

Theo Trái Tim Người Lính