Việt Nam 2019: Một năm phát triển vững vàng, mở đường hướng đến tương lai trong bối cảnh toàn cầu suy giảm

Cập nhật tình hình kinh tế thường niên cuối năm 2019, Ngân hàng Thế giới đã khẳng định khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam và cho rằng, với mức tăng trưởng 6,8%,Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc để trở thành một trong những nước ở vị tăng trưởng GDP hàng đầu thế giới. Từ góc nhìn nghiên cứu trong nước và các định chế tài chính toàn cầu, bài viết tổng hợp một số nét nổi bật của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới và thương mại toàn cầu suy giảm

Môi trường kinh tế toàn cầu và khu vực trong năm 2019

Với rủi ro gia tăng từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, căng thẳng leo thang ở vùng Vịnh, nguy cơ Brexit và bất ổn chính sách, các tổ chức quốc tế luôn đưa ra những dự báo thiếu lạc quan về tăng trưởng kinh tế trong năm 2019. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã  hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu; Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) điều chỉnh mức này xuống dưới 2,9%. Số liệu tổng hợp của W.B khẳng định lòng tin của doanh nghiệp liên tục sụt giảm và đưa mức dự báo tăng trưởng GDP thế giới từ 3% của năm 2018 xuống 2,6%; tương tự, đối với các quốc gia mới nổi, giá trị này cũng hạ từ 4,3% xuống 4%.

Cho dù nhiều  nước đã áp dụng chính sách tiền tệ tạo thuận lợi cho phát triển, song các hoạt động kinh tế toàn cầu đều có xu thế trầm lắng và lưu lượng thương mại suy giảm sâu.

Tại các quốc gia phát triển, sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế Hoa Kỳ sụt giảm mạnh trong quý 3; hết 11 tháng của năm 2019, mức thâm hụt tài khóa của quốc gia này lên tới 1.967 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Cũng như Mỹ, nền kinh tế châu Âu tiếp tục suy yếu, quý 2/2019 tăng trưởng của EU 28 chỉ đạt 1,37% là mức tăng thấp nhất trong 3 năm gần đây.

Ở Đông Á, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới Trung Quốc đang đà suy giảm.Theo dự báo của IMF, tăng trưởng cả năm  của quốc gia này chỉ đạt 6,2% và nền sản xuất có dấu hiệu ngày càng thiếu ổn định.

Cùng với xu thế bất ổn gia tăng trong các nền kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch và thay đổi địa chính trị đang là những thách thức ảnh hưởng mạnh đối với các nền kinh tế đang hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu.

Đông Á-Thái Bình Dương, nơi đóng góp tới 1/3 vào GDP toàn cầu, tăng trưởng toàn khu vực được dự báo  giảm từ 6,3% (năm 2018) giảm xuống 5,8% trong năm 2019 và lần lượt chỉ còn 5,7% và 5,6% trong các năm 2020 và 2021. Do cầu bên ngoài yếu đi cùng với bất định về chính sách thương mại, tại Đông Nam Á (ASEAN),tăng trưởng của nhóm nước ASEAN-5 tiếp tục suy giảm; trong quý II/2019 tăng trưởng của Philippines  đạt 5,5% và Thái Lan ở mức 2,3% (the World Bank 2019).

Vượt qua thách thức, kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững vàng với nhiều nét mới

Mặc dù môi trường bên ngoài thiếu thuận lợi, biến đổi khí hậu khó lường; song nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện được sự vững vàng đi lên. Sau khi bị chững lại trong những tháng đầu năm, vào quý hai tăng trưởng kinh tế đã xoay chiều, đổi hướng, đạt mức tăng 7,3% vào quý ba để đưa tốc độ tăng trưởng 3 quý đầu năm lên 7% và cả năm nhiều khả năng đạt trên 6,8%. Tăng trưởng Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc để đứng vào hàng cao nhất trên thế giới.

Tốc độ tăng trưởng GDP đạt được nhờ kết quả gia tăng của ngành công nghiệp và dịch vụ, lần lượt đạt mức tăng 9,6% và hơn 7% trong 9 tháng đầu năm.Tăng trưởng cao của công nghiệp chế tạo, chế biến và dịch vụ góp phần bù đắp cho ngành xây dựng bị chững lại và ngành nông, lâm, thủy sản gặp bất lợi, chỉ đạt mức tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

Phân tích các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng cho thấy, khu vực kinh tế đối ngoại (FDI) vẫn là động lực; được khẳng định với mức tăng trưởng xuất khẩu cao và đóng góp đến 12% vào tăng trưởng GDP cả năm. Xu hướng xuất hiện gần đây là mỗi năm có thêm khoảng 1triệu người gia nhập tầng lớp trung lưu; tầng lớp trung lưu mới nổi chiếm khoảng 10% dân số, đã thúc đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng và đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cả nước.

Tăng trưởng kinh tế vững vàng tạo ra nhiều việc làm mới và nâng cao tiền lương theo giá so sánh. Lực lượng lao động nông nghiệp đã giảm 1,6 triệu việc làm để chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm 2,5 triệu việc làm mới. Nhờ đó, tỷ lệ nghèo cùng cực cả nước đã giảm xuống còn dưới 2%

Từ những kết quả kinh tế đạt được, áp lực lạm phát hạ thấp và chính sách tiền tệ được nới nhẹ. Mặc dù dịch tả lợn bùng phát và điều kiện thời tiết không thuận lợi làm cho giá cả lương thực thực phẩm tăng cao, song chỉ số giá tiêu dùng từ mức tăng 3% (tháng 12/2018) đã giảm xuống còn 2,2% trong tháng 10/2019.

Cùng với các nhân tố tạo ổn định vĩ mô, đầu quý 4 , tăng trưởng tín dụng đạt 12,5%, thấp hơn chỉ tiêu cả năm là 14%. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nới nhẹ chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn; qua đó tạo điều kiện thuận lợi gia tăng tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn hóa thấp ở hệ thống ngân hàng vẫn còn là một thách thức, cuối quý 3/2019 mới có 12/ 45 ngân hàng báo cáo có tỷ lệ vốn an toàn.

Nhờ biện pháp chủ động tái cơ cấu nợ theo biến động chu kỳ và bán nợ xấu, từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2019, bình quân mỗi tháng có 9,6 nghìn tỷ VND nợ xấu được xử lý. Nhiều khả năng cuối năm 2019, nợ công xuống còn 56% GDP. Đây không chỉ là tín hiệu tích cực về cam kết duy trì nợ, mà còn tạo dư địa tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô.

Thu ngân sách 3 quý đầu năm tăng 10% so cùng kỳ năm trước nhờ tăng được thu từ thuế 10,4%; từ phí và ngoài thuế 14,3%. Cải cách thuế đem lại kết quả, nhưng chưa đủ để đảo ngược được tỷ lệ nguồn thu đang đà suy giảm(thu từ thuế giảm từ 23% GDP năm 2010 xuống còn khoảng 18% GDP trong năm 2018) và thu ngoài thuế chủ yếu lại là khoản thu một lần. Nguồn thu giảm để lại nhiều hệ lụy đến chính sách tài khóa và đặc biệt đối với các chương trình đầu tư công.

Chi tiêu công thấp do chi đầu tư trong năm 2019 đã giảm tới 5,6%. Mức đầu tư này phản ánh việc giải ngân chậm theo chương trình đầu tư đã được Quốc hội phê chuẩn. Trong 3 quý đầu năm, tỷ lệ chi đầu tư công chỉ đạt 49%, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2011- 2014, đã trở thành mối quan ngại cho phát triển tương lai.

Mặc dù nhu cầu toàn cầu yếu đi, song vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam đang vững chắc với thặng dư tài khoản vãng lai xấp xỉ 2% GDP. Kinh tế đối ngoại có khả năng chống chịu ở thời điểm mà thị trường toàn cầu và ở các nền kinh tế mới nổi đang phải chấp nhận suy giảm về lưu lượng thương mại và dòng vốn đầu tư. Từ tháng 12/2018 đến tháng 6/2019 Việt Nam đã tăng dự trữ ngoại hối thêm tương đương với  0,4 tháng nhập khẩu.

Cho dù đạt được kết quả xuất khẩu ngoạn mục, nhưng Việt Nam vẫn không tránh khỏi tác động do sức cầu bên ngoài yếu đi và môi trường bất định toàn cầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 3 quý đầu năm 2019 chỉ tăng 8,4%, thấp hơn nhiều so với mức tăng15,8% của cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản, vốn là lợi thế xuất khẩu, cũng giảm khoảng 6%. Xuất khẩu cà phê và gạo lần lượt giảm mạnh ở mức 21% và 10%. Trong 3 quý đầu năm, xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 28%, nhưng xuất khẩu đến các thị trường ngoài Mỹ chỉ tăng khoảng 3,8% , giảm 12% so với cùng kỳ của năm 2018.

Cùng với hạn chế xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cũng có chiều hướng đảo chiều, từ mức tăng 11,5% cùng kỳ năm 2018, giảm xuống còn 8,4% trong 9 tháng đầu năm.

Trong xu thế chung của nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn giữ vị thế quan trọng. Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ước tính 10 tháng đầu năm, nguồn vốn FDI đăng ký đã vượt 29 tỷ USD. Đến nay, cả nước đã tiếp nhận trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư với tổng số vốn cộng dồn lên trên 358 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp khoảng 70% vào kim ngạch xuất khẩu và 20%vào GDP cả nước, đồng thời cũng tạo được hàng triệu việc làm .

Phân tích số liệu FDI chính thức gần đây cho thấy, có sự chuyển dịch dòng vốn từ đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới sang đầu tư cho mua lại & sát nhập (M&A). Đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới giảm từ 15% năm 2018 đến 22% trong 9 tháng đầu năm, còn giá trị FDI góp vốn và mua cổ phần tại các doanh nghiệp trong nước tăng gấp 4,3 lần (từ 0,28 tỷ USD/thángnăm 2016 lên 1,2 tỷ USD/tháng trong 9 tháng đầu năm 2019). Theo các nhà nghiên cứu,nếu xu thế này tiếp tục mở rộng,có thể dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai (The World Bank 2019 Tr.28)

Triển vọng tăng trưởng dưới góc nhìn nghiên cứu và các định chế tài chính

Nhìn nhận tổng quan xu thế phát triển, Ngân hàng Phát triển châu Á(ADB ) nhận xét, mặc dù mức tăng tổng sản phẩm quốc nội có giảm so với năm 2018, song nền kinh tế Việt Nam vẫn thể hiện mức độ tăng trưởng vững vàng, bất chấp môi trường bên ngoài suy yếu. Các dự báo về lạm phát được ADB điều chỉnh giảm từ 3,5% xuống còn 3,0% trong năm 2019 và từ 3,8% xuống 3,5%vào năm 2020.

Trong báo cáo Cập nhật triển vọng phát triển châu Á năm 2019 (ADO2019), ADB dự báo, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giảm nhẹ, nhưng vẫn duy trì ở mức khá cao, đạt 6,8% trong năm 2019 và 6,7% trong năm 2020. Theo đó, nền kinh tế sẽ tiếp tục phát triển toàn diện dựa trên nền tảng bền vững của công nghiệp chế biến, chế tạo định hướng xuất khẩu, luồng vốn FDI và nhu cầu nội địa tăng cao. Cũng theo ADB, cải thiện môi trường kinh doanh sẽ là nhân tố khuyến khích đầu tư tư nhân, cũng như những nỗ lực tăng cường quan hệ với các đối tác toàn cầu thông qua nhiều hiệp định thương mại (Nguyễn Minh Cường 2019)

Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam, Eric Sidgwick cho rằng, căng thẳng thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm thương mại toàn cầu, song nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa tiếp tục gia tăng và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì.

Nghiên cứu động thái phát triển của nền kinh tế, các nhà phân tích nhận thấy; nhờ điều kiện khí hậu và vệ sinh được cải thiện, ngành nông nghiệp Việt Nam có thể được phục hồi. Theo những dự báo mới nhất; chuyên gia Ngân hàng Thế giới cho rằng, đóng góp của khu vực công sẽ tăng nhẹ nhờ cải thiện về hiệu suất thực hiện chương trình đầu tư công và những cải cách tiếp theo trong các nội dung chiến lược về DNNN, thị trường tài chính , phát triển chuỗi giá trị nhằm đẩy mạnh phát triển khu vực tư nhân và nâng cao năng suất.

Ngân hàng Thế gới (W.B) nhận xét, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi tâm lý kinh tế toàn cầu do mở cửa thương mại mạnh mẽ và dư địa chính sách hạn chế. Mặc dù tăng trưởng kinh tế có phần chững lại so với năm trước, song triển vọng vẫn mang tính tích cực.Tăng trưởng GDP sẽ tiếp tục được trợ lực bởi thị trường lao động; các ngành có năng suất cao như chế tạo, chế biến, dịch vụ hiện đại tạo nhiều việc làm;chính sách tiền tệ duy trì theo hướng cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và ổn định vĩ mô.

Cho dù xuất khẩu duy trì tốt, nhưng Việt Nam cũng không thể tránh khỏi tác động căng thẳng toàn cầu leo thang. Với tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP lên gần 200%, Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ do độ bất định cao và khả năng các chuỗi giá trị toàn cầu bị gián đoạn, có thể trở thành đối tượng của các biện pháp thuế quan và bảo hộ thương mại. Tuy nhiên, triển vọng trung hạn của Việt Nam vẫn tích cực.Tăng trưởng GDP theo giá so sánh dự kiến trong năm 2019 đạt 6,8%, theo xu hướng sản lượng tiềm năng, trong 3 năm kế tiếp, tăng trưởng sẽ xoay quanh 6,5%.

Từ những dự báo đưa ra, tỷ lệ lạm phát năm 2019 được duy trì ở mức 3%, Giá cả lương thực, thực phẩm tuy nhạy cảm với tình hình khí hậu nhưng được dự báo chỉ tăng ở mức vừa phải do hiệu quả của ngành nông nghiệp được cải thiện.

Thặng dư tài khoản vãng lai có thể giảm nhẹ do nhu cầu suy giảm ở các thị trường nước ngoài; nhưng. dòng vốn FDI vẫn có khả năng ổn định cho dù có xu hướng chuyển dịch từ đầu tư theo dự án vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới sang M&A.

Cân đối ngân sách có thể đạt được thông qua tăng thu nội địa, nhờ những cải cách về chính sách và quản lý thuế. Từ quyết tâm của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu suất phân bổ tài chính thông qua cải thiện kế hoạch và triển khai theo các dự án, nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm bội chi ngân sách từ 3,4% GDP năm 2019 xuống 3,2% GDP trong năm 2021

Từ góc nhìn chuyên gia trong nước, các nhà nghiên cứu thuộc Viện  Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam (VEPR) cho rằng, với mức tăng trưởng đạt được 7,31% trong Quý 3, mục tiêu tăng trưởng từ  6,6% đến 6,8% của năm 2019 hoàn toàn có thể đạt được.

Trước những biến động do căng thẳng thương mại Mỹ-Trung và gần đây giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, ảnh hưởng bất lợi đến chuỗi cung ứng toàn cầu, dự báo tương lai của nền kinh tế có thể chịu ảnh hưởng bởi các cú sốc từ bên ngoài, các nhà nghiên cứu dự báo kinh tế Việt Nam quý IV năm 2019 có thể tăng trửơng chậm lại, đạt 7,26% với lạm phát ở mức 2,45% và tăng trưởng kinh tế cả năm sẽ đạt 7,05%  (VEPR 2019).

Cho dù có nhiều tín hiệu lạc quan, song triển vọng kinh tế vẫn chứa dựng những rủi ro. Nhìn từ trong nước, chậm trễ triển khai cải cách cơ cấu có thể làm cho viễn cảnh tăng trưởng trung hạn trở nên xấu đi. Chương trình cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN, sau khi được khởi đầu đầy hứa hẹn vào năm 2017 đã bị chững lại đáng kể trong những tháng qua.

Nhìn từ bên ngoài, tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể ảnh hưởng xấu đến  xuất khẩu trong ngắn hạn. Nền kinh tế chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu; nếu các nhà đầu tư đình hoãn hoặc hủy dự án FDI, nền kinh tế có thể mất đi động lực tăng trưởng.

Thách thức đối với doanh nghiệp tư nhân trong nước là năng suất dựa trên giá trị gia tăng của người lao động thấp, thấp hơn từ 2 đến 5 lần so với DNNN và doanh nghiệp FDI. Điều đáng quan ngại là năng suất giảm do nhiều cản trở. Ngoài thủ tục hành chính, doanh nghiệp tư nhân đang phải đối mặt với nhiều cản trở. Kết quả khảo sát cho thấy, 22% số doanh nghiệp gặp trở ngại nghiêm trọng trong tiếp cận tài chính, 17% phải cạnh tranh phi chính thức và số doanh nghiệp thiếu lao động được đào tạo chiếm trên 10% (World Bank 2019)

Mặc dù có tiềm năng để duy trì thành công cho sự phát triển, song Việt Nam vẫn chịu nhiều rủi ro, thách thức. Với tầm nhìn dài hạn, các nhà nghiên cứu cho rằng, lĩnh vực cải cách quan trọng cần được quan tâm trong xây dựng lộ trình phát triển đó là: Tìm cách giải quyết điểm yếu trong mô hình tăng trưởng vốn quá phụ thuộc vào tích lũy các nhân tố với sự đóng góp hạn chế để tăng năng suất và những vấn đề liên quan đến thể chế thị trường. Mặt khác, cần ưu tiên phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nhằm giảm nhẹ rủi ro theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh và huy động tài chính dài hạn.