Xu thế kinh tế toàn cầu, nét nổi bật của tình hình kinh tế trong năm 2020

Nghiên cứu 395 cuộc khủng hoảng tài chính gần 40 năm qua (từ năm 1970 đến năm 2007), giới nghiên cứu đã chỉ ra 7 dấu hiệu rủi ro liên quan đến nợ công, dòng vốn bên ngoài, thị tường chứng khoán và bất động sản, mất giá đồng nội tệ, nợ xấu, sức chống dỡ của hệ thống ngân hàng, thể chế chính sách và những rủi ro tội phạm. Từ nhận định Đại dịch Covid-19 là cú sốc bất lợi nhất trong hơn một thế kỷ qua, các nhà phân tích cho rằng, khủng hoảng y tế và kinh tế năm 2020 là sự khác biệt nhất so với những cuộc khủng hoảng tài chinh trong lịch sử ,bởi mức độ không chắc chắn cao, phạm vi rộng và khả năng kéo dài chưa từng có

Đại dịch COVID-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu, khiến bức tranh kinh tế thế giới năm 2020 trở nên u ám. Cuối tháng 6 năm 2020, các tổ chức quốc tế và nhìều định chế tài chính đồng loạt nhận định, tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy thoái sâu trong năm 2020.Tuy nhiên, đến giữa tháng 12, khi phần lớn các nền kinh tế tái khởi động sau phong tỏa COVID-19, tăng trưởng kinh tế có những dấu hiệu khả quan hơn. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) nhận định, kinh tế toàn cầu có xu hướng phục hồi với việc điều chỉnh tăng thêm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trước đó. Một số tổ chức khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng điều chỉnh tăng 0,5% mức tăng trưởng kinh tế năm 2020 với dự báo chỉ giảm -4,4%7%,. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á(ADB), tăng trưởng của Trung Quốc đạt mức 2,1%, Hoa Kỳ giảm -3,5%, Khu vực đồng Euro giảm - 7,4%, Nhật Bản giảm- 5,4%. Tại khu vực ASEAN, In-đô-nê-xi-a giảm -2,2%, Ma-lai-xi-a giảm - 6,0%, Thái Lan giảm-7,8%, Phi-li-pin giảm -8,5% và Xin-ga-po giảm - 6,2%.

Phân tích xu thế kinh tế toàn cầu W.B cho rằng, hoạt động kinh tế  phục hồi kiên cường bất chấp sự trỗi dậy của đại dịch. Sau khi GDP tăng mạnh trở lại trong Quý III ở những nền kinh tế phát triển, chỉ số quản trị mua hàng (PMI) tổng hợp toàn cầu đã tăng từ mức 52,5 trong tháng 9 lên 53,3 vào tháng 10, nhờ cải thiện lĩnh vực chế biến chế tạo và dịch vụ. Đà cải thiện này vẫn tiếp tục gia tăng trong  tháng 11, với chỉ số niềm tin kinh tế toàn cầu (Sentix) chuyển từ tiêu cực sang tích cực. Tuy nhiên, đại dịch đang có những diễn biến tồi tệ hơn, với số lượng người nhiễm và các hạn chế về hoạt động gia tăng ở nhiều nền kinh tế phát triển.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định, tăng trưởng toàn cầu năm 2020 có thể  giảm -4,4%, là mức giảm thấp hơn so với dự báo đưa ra trước đó (-4,9%). Dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ đạt 5,2% trong năm 2021. Nhóm các nền kinh tế phát triển được dự báo giảm -5,8% năm 2020, nhưng sẽ tăng lên mức 3,9% trong năm 2021. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, tăng trưởng được dự báo ở mức giảm  -3,3% trong năm 2020 và tăng lên 6% năm 2021.

Với những tiến bộ đạt được trong phát triển vắc xin, tổ chức OECD nhận định, tuy còn nhiều rủi ro trong ngắn hạn, song kinh tế thế giới sẽ thoát khỏi khủng hoảng. Kinh tế toàn cầu dần phục hồi nhưng không giống nhau giữa các quốc gia. Sau khi sụt giảm mạnh trong năm 2020 (-4,2%), GDP toàn cầu được dự báo sẽ tăng khoảng 4,2% vào năm 2021 và 3,7% vào năm 2022. Dự báo tăng trưởng toàn cầu  giai đoạn 2019-2021 được thẻ hiện  ở bảng 1

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) , thương mại hàng hóa toàn cầu được phục hồi nhưng việc duy trì tăng trưởng trong tương lai vẫn chưa rõ nét. Chỉ số thước đo thương mại hàng hóa tăng mạnh là do “đơn đặt hàng xuất khẩu” tăng lên, nhưng có sự  khác biệt giữa các yếu tố và sự dai dẳng của dịch COVID-19 có thể ảnh hưởng trong thời gian tới. Phục hồi mạnh mẽ của thương mại trong Quý II khi nới lỏng phong tỏa, nhưng tăng trưởng có thể  chậm lại trong Quý IV. Ngoài ra, tính không chắc chắn của thương mại ở mức cao. Làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai đang diễn ra ở châu Âu và Bắc Mỹ có thể dẫn đến một đợt đóng cửa kinh doanh mới và làm kiệt quệ tài chính.

Bảng 1: Tăng trưởng toàn cầu giai đoạn 2019-2021

Đơn vị tính: %

STT

Tổ chức
 

2019

2020

2021

1

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

2,8

-4,4

5,2

2

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)

2,7

-4,2

3,7

     

Nguồn: IMF, OECD,

Các nhà phân tích nhấn mạnh, thương mại toàn cầu được cải thiện nhưng không đồng đều. Dữ liệu gần đây cho thấy tốc độ phục hồi đang chậm lại. Sau nhiều tháng thương mại hàng hóa được cải thiện, tháng 10 năm 2020, các đơn hàng xuất khẩu trong lĩnh vực chế biến chế tạo giảm 0,5 điểm, xuống còn 51,2 điểm và lĩnh vực dịch vụ giảm 0,6 điểm, chỉ đạt 46,2 điểm. Đáng chú ý là, du lịch quốc tế vẫn suy giảm mạnh, với trên 1/.2 số quốc gia phâi đối mặt với lượng khách du lịch sụt giảm hơn 75% trong tháng 9.

Trong xu thế thương mại toàn cầu trên đà cải thiện,  giá hàng hóa có xu hướng tăng nhờ tín hiệu tích cực từ sản xuất vắc-xin. Trong tháng 11, một số mặt hàng, đặc biệt là dầu thô, đã tăng giá mạnh do việc công bố vắc-xin COVID-19 làm tăng niềm tin của các nhà đầu tư, thúc đẩy triển vọng phục hồi nhu cầu dầù mỏ. Theo IMF, giá dầu giao ngay trung bình cao hơn so với dự báo của tháng 4 và tháng 6. Dự kiến giá dầu sẽ tiếp tục tăng lên 48 đô la, nhưng vẫn thấp hơn 25% so với mức trung bình năm 2019.Trong tháng 12, giá kim loại tăng nhẹ đồng thời giá hàng hóa nông nghiệp tiếp tục có mức tăng khiêm tốn.

Các điều kiện tài chính tiếp tục được nới lỏng, qua đó hỗ trợ tâm lý và ngăn chặn sự khuếch đại hơn nữa của cú sốc COVID-19 thông qua hệ thống tài chính. Các sáng kiến tài chính mới và các chính sách giải cứu ,bao gồm cấp tiền mặt và hiện vật cho các doanh nghiệp và hộ gia đình bị ảnh hưởng, trợ cấp tiền lương để duy trì việc làm, mở rộng bảo hiểm thất nghiệp và hoãn thuế,… đã giúp cải thiện tâm lý của các nhà đầu tư. Các hoạt động của ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển hỗ trợ cung cấp tín dụng cho nhiều đối tượng khách hàng
Mặt khác, dòng vốn đổ vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi cũng tăng dần
tâm lý lạc quan đã thúc đẩy sự phục hồi dòng vốn đầu tư vào các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Hầu hết các thị trường chứng khoán của các quốc gia này đã phục hồi trong tháng 11, tuy nhiên,vẫn còn ở dưới mức trước đại dịch ở nhiều quốc gia. Ngoài ra, sự phục hồi của dòng vốn đầu tư gián tiếp không đồng đều giữa các quốc gia đang phát triển và mới nổi.
OECD cho biết, tỷ lệ lạm phát ở các nền kinh tế phát triển đã tăng trở lại, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Dự báo xu hướng này sẽ tiếp tục trong ngắn hạn và lạm phát sẽ giảm trong năm 2021. Theo IMF, trong số các đồng tiền chính, đồng đô la giảm giá hơn 4,5% từ tháng 4 đến cuối tháng 9 Trong cùng kỳ, đồng euro tăng giá gần 4% nhờ cải thiện triển vọng kinh tế và mức lây nhiễm COVID-19 có xu hướng giảm. Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc đã mạnh lên và đồng tiền của các nền kinh tế thị trường mới nổi châu Á khác nhìn chung vẫn giữ ổn định.

Theo IMF, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng ở các nền kinh tế phát triển và thị trường mới nổi. Tỷ lệ người lao động thiếu việc làm ở một số nền kinh tế phát triển cao hơn đáng kể so với tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp ở một số nền kinh tế thị trường mới nổi được dự báo sẽ tăng mạnh trong năm 2020.

Trong các nền kinh tế trung bình của OECD, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 9 cao hơn khoảng 1,25 % so với ngay trước đại dịch, nhưng không đồng đều giữa các quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp chỉ tăng nhẹ ở Nhật Bản và ở nhiều nền kinh tế châu Âu, phần lớn là do các biện pháp duy trì việc làm trong thời gian ngắn và trợ cấp lương, Tuy nhiên, tỷ lệ này của Hoa Kỳ và Ca-na-đa cũng như ở một số nền kinh tế thị trường mới nổi chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch lại tăng.

Theo IMF, nền kinh tế thế giới có thể đối mặt với những rủi ro chính đó là  Cô vid-19 tái bùng phát, điều kiện tài chính thắt chặt, bất ổn xã hội gia tăng, căng thẳng địa chính trị, không chắc chắn về chính sách thương mại, những mâu thuẫn về công nghệ.và Thiên tai do biến đổi khí hậu

Các đợt bùng phát dịch bệnh Covid-19 có thể tái diễn ở nhiều nơi, làm cho hoạt động kinh tế có thể phục hồi chậm lại và đạt mức thấp hơn dự kiến; Sự lan tỏa xuyên biên giới từ nhu cầu bên ngoài yếu hơn có thể làm tăng thêm tác động của các cú sốc tại các quốc gia hoặc khu vực đối với tăng trưởng toàn cầu;

 Các điều kiện tài chính có thể thắt chặt làm lộ ra những lỗ hổng. Do ngừng đột ngột cho vay mới hoặc không trả được nợ hiện có khiến một số nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nợ, làm suy giảm hoạt động kinh tế. Suy thoái sâu sẽ kéo theo thiếu hụt thanh khoản trên diện rộng và nếu tình trạng này kéo dài sẽ đẩy các công ty vào phá sản hoặc đóng cửa, dẫn đến mất việc làm và thu nhập, làm suy yếu thêm nhu cầu.

Bất ổn xã hội gia tăng. Giữa năm 2020, tình trạng bất ổn xã hội gia tăng tại Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới qua các cuộc biểu tình chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng chủng tộc. Các cuộc biểu tình lan rộng hoặc kéo dài hơn có thể làm suy giảm niềm tin và ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh tế.

Căng thẳng địa chính trị. Căng thẳng địa chính trị có xu hướng giảm leo thang trong đại dịch nhưng có thể bùng phát trở lại. Quan hệ căng thẳng giữa Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) Nga và các nước xuất khẩu dầu ngoài OPEC, gây rủi ro cho nguồn cung dầu toàn cầu , có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các nhà xuất khẩu dầu mỏ, làm tăng trưởng yếu hơn dự kiến.

Sự không chắc chắn về chính sách thương mại và những mâu thuẫn về công nghệ đẫn đến các rào cản thương mại gia tăng, điều này làm tăng chi phí kinh doanh và có thể làm gián đoạn các thỏa thuận sản xuất xuyên biên giới. Sự không chắc chắn về chính sách thương mại có thể gia tăng trở lại trong bối cảnh này hoặc trong các cuộc thảo luận liên quan đến các đối tác thương mại khác, ảnh hưởng đến tăng trưởng toàn cầu.

Tần suất và cường độ gia tăng các thảm họa thiên nhiên liên quan đến thời tiết như bão, lũ lụt, sóng nhiệt, hạn hán và cháy rừng gây ra thiệt hại về nhân đạo và mất sinh kế trên diện rộng ở nhiều khu vực. Các thảm họa cũng có thể góp phần làm tăng di cư xuyên biên giới và căng thẳng tài chính hoặc thêm gánh nặng bệnh tật.

4. Kinh tế khu vực ASEAN và Việt Nam dưới góc nhìn của cácđịnh chế tài chính toàn cầu
Trong bối cảnh toàn cầu, từ thực tế khu vực , Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã nghiên cứu sâu về các nèn kinh tế trong khu vực. Theo đó, tổ chức này đã điều chỉnh giảm dự báo GDP của khu vực Đông Nam Á trong  năm 2020 từ mức -3,8% xuống -4,4%.

Do những nỗ lực ngăn chặn dịch COVID-19 phần nào đó đã cản trở sự phục hồi kinh tế của các cstrong khu vực. ADB đã điều chỉnh giảm mức dự báo GDP của In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Phi-li-pin trong năm 2020. Định chế tài chính này cũng chỉ ra, thành công trong việc mở cửa trở lại nền kinh tế cho thấy triển vọng tăng trưởng tốt hơn ở Bru-nây, Thái Lan và Việt Nam. Đối với Cam-pu-chia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Mi-an-ma và Xin-ga-po, ADB giữ nguyên mức  dự báo tăng trưởng vào tháng 9 năm 2020

Những phân tich cũng đã chỉ ra, nền kinh tế In-đô-nê-xi-a giảm 3,5% trong Quý III do tiêu dùng và đầu tư tư nhân tiếp tục giảm; tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 7,1% trong tháng 8, đạt mức cao nhất kể từ tháng 8 năm 2011. Dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến gần 30 triệu người do giảm giờ làm, ngưng trệ hoặc mất việc làm. Dự báo GDP của quốc gia này giảm - 2,2% năm 2020 trước khi quay trở lại tăng trưởng 4,5% vào năm 2021. Niềm tin của người tiêu dùng và chi tiêu tăng theo chương trình phục hồi kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng của năm 2021.
Ma-lai-xi-a đã cải thiện đáng kể tốc độ tăng GDP từ -17,1% trong Quý II lên -2,7% trong Quý III do tăng tiêu dùng và xuất khẩu các sản phẩm điện tử và y tế. Đầu tư và tiêu dùng tư nhân giảm nhẹ trong Quý III. Xuất khẩu ròng lần đầu tiên tăng trưởng dương kể từ Quý III năm 2019. Những hạn chế đi lại để đối phó với sự gia tăng đột biến các trường hợp lây nhiễm COVID-19 trong tháng 10 đã làm giảm quy mô tiêu thụ và sản xuất trong Quý IV. Do hạn chế đi lại và nhu cầu bên ngoài giảm, dự báo tăng trưởng GDP sẽ giảm - 6,0% trong năm nay trước khi tăng trở lại 7,0% vào năm 2021.

Nền kinh tế Phi-li-pin được dự báo giảm 10,0% trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2020 đã phản ánh hoạt động kinh doanh, tiêu dùng và niềm tin của người tiêu dùng giảm sút do đại dịch. Với tỷ lệ thất nghiệp được cải thiện nhưng vẫn cao, ở mức 10,0% trong tháng 7, tiêu dùng hộ gia đình đã được cải thiện (từ mức -15,3% trong Quý II lên -9,3% trong Quý III) do nền kinh tế dần mở cửa trở lại và lượng kiều hối từ lao động nước ngoài tăng trở lại. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức 8,7% vào tháng 10. Tiêu dùng của chính phủ tiếp tục tăng nhưng với tốc độ giảm dần; Xuất khẩu giảm ít hơn nhập khẩu đã góp phần giảm bớt suy giảm GDP. Dự báo GDP năm 2020 giảm - 8,5% do tiêu dùng và đầu tư của các hộ gia đình giảm nhiều hơn dự kiến. Nếu đầu tư công tăng lên và kinh tế toàn cầu phục hồi, tăng trưởng GDP năm 2021 có thể đạt mức  6,5%

Tăng trưởng của Xin-ga-po giảm 5,8% trong Quý III. trong Quý IV được hưởng lợi từ niềm tin kinh doanh được cải thiện, sản xuất và dịch vụ mở rộng tuy tiếp tục bị ảnh hưởng do hạn chế đi lại và nhu cầu toàn cầu yếu. ADB dự báo GDP của quốc gia này được duy trì ở mức -6,2% trong năm 2020 và lên 5,1% vào năm 2021.

GDP của Thái Lan được dự báo giảm -6,4% trong Quý III, phục hồi 1/2 so với mức giảm -12,1% trong Quý II. Thương mại hàng hóa, đầu tư và tiêu dùng tư nhân dần hồi phục nhờ các biện pháp ngăn chặn được nới lỏng và cộng hưởng tích cực từ việc tiếp tục mở rộng tiêu dùng cũng như đầu tư công. Dự báo cho năm 2020 mức tăng trưởng được điều chỉnh tăng nhẹ từ -8,0% lên -7,8%, đạt được mức này  nhiều khả năng, tăng trưởng trong  năm 2021 sẽ từ 4,% đến 4,5%. Triển vọng tăng trưởng của những nền kinh tế khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2019-2021 được thể hiện trong bảng 2

Biểu 2. Tăng trưởng GDP những năm 2019-2021 của một số quốc gia Đông Nam Á

Đơn vị tính: %

STT

Quốc gia

2019

2020

2021

ADB

IMF

ADB

IMF

ADB

IMF

1

In-đô-nê-xi-a

5,0

5,0

-2,2

-1,5

4,5

6,1

2

Ma-lai-xi-a

4,3

4,3

-6,0

-6,0

7,0

7,8

3

Phi-li-pin

6,0

6,0

-8,5

-8,3

6,5

7,4

4

Thái Lan

2,4

2,4

-7,8

-7,1

4,0

4,0

5

Xin-ga-po

0,7

 

-6,2

 

5,1

 

Nguồn: ADB và IMF

5.Triển vọng của nền kinh tế Việt Nam từ góc nhìn ngân hàng thế giới

Trong Báo cáo “Điểm lại” công bố ngày 21/12/2020, Ngân hàng Thế giới (W.B) nhận định, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, nhưng  trái ngược hoàn toàn với  những diễn biến kinh tế ảm đạm ảnh hưởng đến toàn thế giới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả vững chắc/ Sau khi bị giảm sâu trong Quý II, tăng trưởng GDP chỉ đạt 0,4%, tốc độ tăng trưởng trở lại mức ổn định 2,6% trong Quý III và  tăng trưởng cả năm được dự báo đạt 2,8%.Tuy mức tăng thấp hơn khoảng 4,2% so với năm 2019, nhưng lại là mức cao nhất so với hầu hết những nền kinh tế khác trên thế giới, bao gồm cả khu vực Đông Á  (Ngân hàng Thế giới 2020)

Kết quả đáng ghi nhận của Việt Nam có thẻ che lấp sự khác biệt giữa các ngành và lĩnh vực với tỷ lệ tăng trưởng thấp trong đại dịch Covid-19 so với giai đoạn trước đó. Trong 3 quý đầu năm lĩnh vực công nghiệp tăng 3,08%, nông nghiệp tăng 1,84% và dịch vụ chỉ tăng 1,37%. Trái ngược với bán lẻ hàng hóa lương thực thực phẩm , thiết bị gia dụng có tỷ lệ tăng trưởng cao, vận tải hành khách nội địa và quốc tế  đã lần lượt giảm 30% và 80%. Nền kinh tế tiếp tục phục hồi trong tháng 10, lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng gần bằng giai đoạn trước dịch COVID-19. Hoạt động sản xuất công nghiệp và bán lẻ ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ hàng hóa lần lượt tăng 6,6% và 6,7% so với cùng kỳ năm trước.

Thặng dư thương mại hàng hóa tiếp tục tăng kỷ lục, một phần nhờ hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh. Thặng dư thương mại hàng hóa trong 10 tháng đầu năm 2020 của Việt Nam đạt mức kỷ lục 17,7 tỷ USD, trong đó tháng 10 đạt 1,4 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa tăng lần lượt 9,7% và 9,8% so với cùng kỳ năm trước.

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam gia tăng cho thấy, niềm tin vào nền kinh tế được khôi phục sau đợt bùng phát dịch vào tháng 8. Khi làn sóng COVID-19 thứ hai được kiểm soát thành công, FDI đã tăng lên khoảng 2,27 tỷ USD trong tháng 10, so với 1,67 tỷ USD trong tháng 9 và 0,8 tỷ USD trong tháng 8. Trong 10 tháng đầu năm 2020, Việt Nam đã thu hút được 23,5 tỷ USD vốn FDI, thấp hơn 19,4% so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vẫn là một thành tựu nổi bật khi UNCTAD dự báo dòng vốn FDI vào các nước Đông Á sẽ giảm 30% đến45% trong năm 2020.

Lạm phát vẫn duy trì mức ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 10 vẫn đi ngang so với những tháng trước đó cho thấy sự ổn định trong ngắn hạn của giá thực phẩm, năng lượng và giao thông. Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam cắt giảm lãi suất nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn giảm nhẹ so với cùng kỳ. Vào đầu tháng 10, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 4,5% xuống 4% và lãi suất tái chiết khấu từ 3% xuống 2,5%. Động thái này phù hợp với chính sách của Chính phủ nhằm giảm chi phí vay vốn kể từ đầu cuộc khủng hoảng COVID-19. Tăng trưởng tín dụng ở mức 9,6% trong tháng 10 so với cùng kỳ năm trước,có giảm nhẹ so với mức tăng trưởng 10,2% của tháng 9. Tuy nhiên, tốc độ tăng này vẫn cao hơn nhiều so với tăng trưởng GDP danh nghĩa, do đó tỷ lệ tín dụng/GDP vẫn đang tiếp tục tăng.Trong thời gian tới, triển vọng của Việt Nam được cho là tích cực khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức 6,8% trong năm 2021 và sẽ ổn định mức 6,5% các năm tiếp theo. Dự báo này của WB được đưa ra dựa trên giả định khủng hoảng COVID-19 sẽ dần được kiểm soát khi vắc xin COVID-19 phát huy hiệu quả.

Trong Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới tháng 10 năm 2020, IMF dự báo GDP của Việt Nam tăng 1,6% trong năm 2020,là mức cao thứ hai tại khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia tăng trưởng dương tại châu Á trong bối cảnh đại dịch COVID-19.

Kết thúc đợt tham vấn trực tuyến từ 15 tháng 10 đến 13 tháng 11 tại Việt Nam, Đại diện Vụ châu Á - Thái Bình Dương của IMF, Era Dabla Norris cho biết, nhờ vào những chính sách quyết đoán nhằm ngăn chặn tình trạng suy giảm sức khỏe và kinh tế từ dịch COVID-19, tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2020 có thể đạt 2,4%, là một trong những mức cao nhất trên thế giới. Các chính sách tài khóa hướng tới hỗ trợ hộ gia đình và doanh nghiệp dễ bị tổn thương, cùng với nới lỏng chính sách tiền tệ và các biện pháp hỗ trợ tài chính tạm thời của Ngân hàng Nhà nước đã giảm bớt áp lực thanh khoản, giảm chi phí huy động vốn và tạo điều kiện tiếp tục cho dòng chảy tín dụng. Phục hồi mạnh mẽ nền kinh tế có thể  diễn ra vào năm 2021 với mức tăng trưởng dự kiến lên 6,5%, khi hoạt động kinh tế tiếp tục bình thường hóa. Các chính sách tài khóa và tiền tệ dự kiến vẫn mang tính hỗ trợ, mặc dù ở mức độ thấp hơn so với năm 2020. Lạm phát dự kiến sẽ vẫn gần với mục tiêu của chính phủ, ở mức 4%.

Dưới góc nhìn của Ngân hàng Phát triển châu Á, GDP Việt Nam tăng nhanh từ 0,4% trong Quý II năm 2020 lên 2,6% trong Quý III, nâng mức tăng trưởng trung bình từ tháng 1 đến tháng 9 lên 2,1%. Dự báo tăng trưởng cho năm 2020 được điều chỉnh tăng từ 1,8% lên 2,3% nhờ đầu tư công được đẩy mạnh, tiêu dùng trong nước phục hồi, mở rộng thương mại và phục hồi kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc. ADB dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2021 sẽ đạt 6,1%.Tổng hợp tình hình tăng trưởng của Việt Nam dưới góc nhìn của các tổ chức quốc tế trong giai đoạn 2019-2021 được thể hiện trong bảng 3

Bảng 3. Dự báo của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng của Việt Nam

Đơn vị tính: %

STT

Tổ chức

2019

2020

2021

1

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

7,0

2,4

6,5

2

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)

7,0

2,3

6,1

3

Ngân hàng Thế giới (W.B)

7,0

2,8

6,8

Nguồn  ÌM,ADB,W.B 2020

Tàii liệu tham khảo

Nguyễn Đình Trung (2020).Các rủi ro của nền kinh tế và thị trường tài chính toàn cầu trong bối cảnh đại dịch Covid-19

http://tapchinganhang.gov.vn/cac-rui-ro-cua-nen-kinh-te-va-thi-truong-tai-chinh-toan-cau-trong-boi-canh-dai-dich-covid-19.htmNgày đăng:10:24 03/11/2020       Lượt xem: 1.366

Chris Jeffery (2020)   Internationl Economics on Cooperation and Integration 2020

 The 7 th  Co ference on Intrnatiomal  Economic  Cooperation and integration, Hanoi, December

Ngân hàng Thế giới (2020) báo cáo Điểm lại Từ Covid-19 đến BĐKH Lamfthees nào để Viê Nam trở thành quốc gia tiên phong trong phục hồi xanh; the World Bank  December 2020