Chia sẻ về biến chủng Delta, ông có thể chỉ ra những điểm khác biệt của biến chủng này như chúng có tải lượng virus cao, có khả năng xâm nhập tế bào cao hơn, dẫn đến dễ lây lan. Vì vậy mặc dù tỷ lệ tử vong có thể không tăng cao, nhưng do nhiều người bị nhiễm hơn, nhiều người phải nhập viện hơn sẽ dẫn đến quá tải hệ thống y tế, và do đó tỷ lệ tử vong trên thực tế sẽ có thể cao hơn. Điều này có thể giảm thiểu bằng cách hạn chế lây lan và tăng tiềm lực của hệ thống y tế.
Trong bối cảnh SAR-CoV-2 liên tục xuất hiện những biến chủng mới, ông cho rằng, điều quan trọng nhất là giảm sự lây lan của bất cứ chủng SAR-CoV-2 nào để tránh tạo ra những biến chủng mới. Khi SARS-CoV-2 càng biến đổi nhiều thì sẽ tăng rủi ro tạo ra biến chủng khiến vaccine hiện tại trở nên kém hoặc mất hiệu lực. Thêm vào đó, theo sát những thông tin phân tích cảnh báo của WHO.
Ngoài ra, công tác theo dõi sàng lọc biến chủng mới, kiểm soát thống kê dịch tễ của các ca bệnh sẽ giúp nắm bắt tình hình và có những biện pháp cảnh báo ứng phó kịp thời. Xét nghiệm thường xuyên diện rộng, công nghệ giải trình tự gene, cùng với theo dõi dịch tễ chặt chẽ và sự chia sẻ dữ liệu một cách có hệ thống sẽ là những công cụ đắc lực và tối quan trọng phục vụ cho công tác theo dõi nắm bắt tình hình thực tế của dịch bệnh.
Đối với những giải pháp cấp bách trong tình hình “nước sôi nửa bỏng” trong tình hình hiện tại ở Việt Nam, từ kinh nghiệm của Đan Mạch và các nước ông đề xuất 9 giải pháp giải pháp cụ thể gồm:
1. Tìm kiếm và triển khai vaccine tới càng nhiều người dân càng tốt.
2. Duy trì giãn cách xã hội vệ sinh phòng dịch theo 5K.
3. Rèn luyện sức khỏe ăn ngủ điều độ, tinh thần thư giãn để tăng sức đề kháng.
4. Duy trì và tăng sức phục vụ của hệ thống y tế bằng số giường bệnh và trang thiết bị.
5. Duy trì xét nghiệm để nắm bắt tình hình dịch bệnh một cách chính xác giúp cho việc khoanh vùng, cách ly hoặc đóng cửa kịp thời.
6. Có giải pháp kinh tế để giảm bớt lo lắng trong dân.
7. Cung ứng vật tư nhu yếu phẩm để dân không bị thiếu đói.
8. Kết hợp truyền thông và giải pháp tư vấn hỗ trợ tâm lý để giảm áp lực và duy trì niềm tin và nỗ lực thực hiện giãn cách.
9. Triển khai các biện pháp tư vấn theo dõi F0 để tránh tập trung cách ly không cần thiết, và cũng nhập viện kịp thời khi cần thiết.
Đồng thời, ông cũng chỉ ra một vài bất cập trong sự phối hợp giữa các bộ ngành, cụ thể ông cho rằng ở Việt Nam đang thiếu sự điều phối hiệp đồng của các bộ ngành (Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền Thông, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo...) và các nguồn quỹ tài chính để tuyển lựa và đưa ra những giải pháp đủ năng lực phục vụ cho các nhà chuyên môn (bác sĩ, nhân viên y tế) và cho người dân.
"Những giải pháp tương tự nhau cần chọn ra lấy một giải pháp để tập trung đầu tư và tuyên truyền sử dụng. Những giải pháp tương tự cần loại bỏ hoặc kết hợp với giải pháp chính để hoàn thiện hơn. Trong lĩnh vực y tế và sinh y, việc thiết lập các dự án hợp tác nghiên cứu chia sẻ nguồn lực, tổ chức điều phối, đặt ra và áp dụng nghiêm ngặt các mục tiêu chiến lược là những việc làm ở cấp quản lý có thể thực hiện. Về mặt công nghệ và nền tảng số, việc hệ thống hóa, giải quyết những vướng mắc ở địa phương trong việc chia sẻ dữ liệu sẽ giúp việc chia sẻ thông tin được thuận lợi. Dữ liệu tốt là sở sở quan trọng và điều kiện tiên quyết để có thể theo dõi, phân tích đánh giá chính xác phục vụ công tác y tế tiến tới việc đưa ra quyết định đúng đắn dựa trên số liệu (data-driven decision making). Nó cũng tạo điều kiện để áp dụng nền Y học Chính xác và Y học Cá thể (Precision medicine và Personal medicine)....", Tiến sĩ Lê Quý Vang chia sẻ.
Tiến sĩ Lê Quý Vang sinh năm 1979. Năm 2002, sau khi tốt nghiệp cử nhân ngành Vi sinh vật học tại trường Đại học Khoa học Tự nhiên tại Việt Nam, nhận được học bổng toàn phần đi du học ở Hàn Quốc cho chương trình Thạc sĩ (2003-2005) và chương trình Tiến sĩ (2006-2009). Từ năm 2009 tới nay, ông đảm nhiệm nhiều vị trí công tác ở Đan Mạch, là thành viên của nhóm phản ứng nhanh Taskforce Covid-19 của AVSE Global và đang dẫn dầu một nhóm tư vấn về đổi mới sáng tạo. |