Kinh tế Việt Nam năm 2019: Tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh tòa cầu suy giảm và triển vọng phát triển

Trong thông cáo báo chí phát đi từ Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ngân hàng Thế giới (W.B) cho biết, tốc độ tăng trưởng GDP của Viêt Nam ước đạt 6,8%, nợ công cả nước giảm gần 8 điểm % GDP so với năm 2016 và thương mại đạt thặng dư bốn năm liên tục. Đây là những kết quả rất ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chững lại.

Cập nhật tình hình kinh tế thường niên, Ngân hàng Thế giới đã khẳng định khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam và cho rằng, tăng trưởng GDP trong năm 2019 được duy trì nhờ vào khu vực kinh tế đối ngoại vững mạnh, xuất khẩu tăng trưởng 8%, cao hơn gần 4 lần mức bình quân chung trên thế giới. Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài với dòng vốn đầu tư FDI cam kết 3 tỷ USD mỗi tháng. Bên cạnh đó, tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình, khi tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh,mức lương tăng cùng với đầu tư tư nhân gia tăng, đã góp phần  quan trọng vào tăng trưởng GDP so với cùng thời kỳ năm trước (The World Bank2019).

Từ góc nhìn nghiên cứu trong nước và các định chế tài chính toàn cầu, bài viết tổng hợp một số nét nổi bật của kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm với lưu lượng thương mại toàn cầu ngày càng thấp hơn.

1.Môi trường kinh tế toàn cầu và khu vực trong năm 2019

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại với những rủi ro gia tăng từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, căng thẳng leo thang ở vùng Vịnh, nguy cơ Brexit và bất ổn chính sách, các tổ chức quốc tế liên tục đưa ra những dự báo thiếu lạc quan về mức tăng trưởng kinh tế của năm 2019. Quỹ Tiền tệ IMF hạ mức dự báo tăng trưởng toàn cầu thấp hơn trước đó; Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD đưa mức dự báo tăng trưởng toàn cầù năm 2019 xuống 2,9%. Số liệu tổng hợp của W.B đã khẳng định hoạt động thị trường thế giới thiếu sôi động với lòng tin của doanh nghiệp và chỉ số quản trị mua hàng(PMI) trong ngành chế biến, chế tạo liên tục sụt giảm. Theo đó, mức tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2019 được dự báo giảm từ 3% của năm 2018  xuống còn 2,6%; tương tự, đối với các quốc gia mới nổi, giá trị này hạ từ 4,3% xuống 4%.

Cho dù ngân hàng trung ương nhiều  nước đã áp dụng chính sách tiền tệ tạo thuận lợi để phát triển, song các hoạt động kinh tế toàn cầu đều có xu thế trầm lắng đi cùng suy giảm liên tục về lưu lượng thương mại. Những chỉ báo về sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế Mỹ đều sụt giảm mạnh trong quý 3. Hết 11 tháng của năm 2019, mức thâm hụt tài khóa ngân sách nước Mỹ lên tới 1.967 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước.Cũng như nước Mỹ, nền kinh tế châu Âu tiếp tục suy yếu, tăng trưởng thấp nhất trong vòng 3 năm gần đây, mức tăng của EU 28 trong quý 2/2019 chỉ đạt 1,37%.

Tại Đông Á, Trung Quốc nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới tiếp tục đà suy giảm.Theo dự báo của IMF, tăng trưởng kinh tế năm 2019 của quốc gia này ở mức 6,2%. Với chỉ số phí sản xuất NMI ở 53,7 điểm trong quý 3, nền sản xuất của quốc gia này có dấu hiệu ngày càng thiếu ổn định. Cùng với xu thế bất ổn gia tăng trong những nền kinh tế phát triển, chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch và thay đổi về địa chính trị đang là thách thức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với những nền kinh tế đang đà hội nhập sâu vào kinh tế toàn cầu.

Hầu hết các nền kinh tế ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, đều phụ thuộc vào thị trường kinh tế thế giới. Mức tăng trưởng của những nền kinh tế đang phát triển đã giảm từ 6,5% (nửa đầu năm 2018) xuống còn 6 % (trong nửa đầu năm 2019) ; tăng trưởng toàn khu vực được dự báo sẽ từ 6,3% của năm 2018 xuống 5,8% trong năm 2019 và sẽ lần lượt xuống còn 5,7% và 5,6% trong các năm 2020 và 2021. Xu hướng suy giảm của khu vực được lý giải bởi sức cầu bên ngoài yếu đi cùng với bất định về chính sách thương mại, tạo sức ép lên các hoạt động kinh tế trong khu vực. Mặc dù tăng trưởng có giảm sút, song Đông Á-Thái Bình Dương vẫn được coi là động lực phát triển của nền kinh tế toàn cầu, đóng góp tới 1/3 vào mức tăng GDP toàn thế giới (the World Bank 2019).

Tại khu vực Đông Nam Á (ASEAN). Tăng trưởng của nhóm nước ASEAN-5 (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) tiếp tục suy giảm. Trong quý II, tăng trưởng của Philippines xuống còn 5,5%, Thái Lan ở mức 2,3%

2.Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, những kết quả nổi bật

Mặc dù môi trường bên ngoài thiếu thuận lợi, còn nhiều thách thức; song trong năm 2019, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sự vững vàng. Tăng trưởng sau khi chững lại vào quý hai đã xoay chiều đi lên, đạt mức tăng 7,3% vào quý ba, đưa tốc độ tăng trưởng 3 quý đầu năm lên 7% và tăng trưởng GDP cả năm nhiều khả năng đạt 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã vượt qua Trung Quốc để đứng vào hàng cao nhất trên thế giới.

Tốc độ tăng trưởng GDP đạt được nhờ kết quả gia tăng 9,6% của ngành công nghiệp và 7% của ngành dịch vụ trong 9 tháng đầu năm.Tăng trưởng cao của công nghiệp chế tạo, chế biến và dịch vụ đã bù đắp cho ngành xây dựng bị chững lại và ngành nông, lâm, thủy sản gặp bất lợi về khí hậu, giá cả đi xuống và dịch tả lợn châu Phi bùng phát, chỉ tăng trưởng 2% trong 9 tháng đầu năm .

Phân tích các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng cho thấy, khu vực kinh tế đối ngoại (FDI) vẫn là động lực truyền thống; được khẳng định với tăng trưởng xuất khẩu cao và đóng góp đến 12% vào tăng trưởng GDP của năm 2019. Nhìn từ phía cầu, tốc độ tăng trưởng GDP được trợ lực bởi tăng trưởng tín dụng và  gia tăng nhu cầu trong nước của khu vực tư nhân.

Xu hướng xuất hiện gần đây là, đóng góp của tiêu dùng tư nhân, do tầng lớp trung lưu mới nổi chiếm khoảng 10% dân số. Theo ước tính, mỗi năm có thêm một triệu người gia nhập tầng lớp trung lưu, xu hướng này đã thúc đẩy mạnh nhu cầu về hàng tiêu dùng và nhà ở. Đầu tư của khu vực tư nhân tăng gần 17% đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP cả nước. Trái ngược với khu vực tư nhân, đóng góp của khu vực công cho tăng trưởng vẫn theo chiều hướng thấp, ước đạt 0,4 % GDP, thấp hơn ba lần so với năm 2016 (The World Bank 2019).

Tăng trưởng kinh tế vững vàng tiếp tục tạo ra việc làm mới và giúp tăng lương theo giá so sánh. Lực lượng lao động tiếp tục thoát nông (giảm 1,6 triệu việc làm trong 9 tháng đầu năm) để chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ (tạo ra 2,5 triệu việc làm mới), góp phần nâng cao thu nhập, Nhờ đó, tỷ lệ nghèo cùng cực cả nước(theo chuẩn nghèo 1,90 USD/ngày) đã giảm xuống dưới 2%

Từ những kết quả đạt được, áp lực lạm phát đã hạ thấp trong nền kinh tế và chính sách tiền tệ được nới nhẹ. Mặc dù dịch tả lợn bùng phát và điều kiện thời tiết không thuận lợi làm cho giá cả lương thực thực phẩm tăng cao, song chỉ số giá tiêu dùng từ mức tăng 3% vào tháng 12/2018 đã giảm xuống còn 2,2% trong tháng 10/2019. Theo giới nghiên cứu, yếu tố chính đóng góp vào tỷ lệ lạm phát năm 2019 là do điều chỉnh giá Nhà nước quản lý ở các lĩnh vực y tế và giáo dục, theo lộ trình của Chính phủ.

Cùng với các nhân tố tạo ổn định vĩ mô, tăng trưởng tín dụng đạt 12,5% vào đầu quý 4, thấp hơn chỉ tiêu 14% cho cả năm. Trong tháng 9/2019, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nới nhẹ chính sách tiền tệ bằng cách cắt giảm lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất được cắt giảm sẽ nới lỏng thanh khoản ở các ngân hàng, qua đó tạo điều kiện thuận lợi tăng tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn hóa thấp ở hệ thống ngân hàng vẫn còn là một thách thức lớn, cuối tháng 9/2019 mới có 12/ 45 ngân hàng đang hoạt động báo cáo có tỷ lệ vốn an toàn.

Khu vực ngân hàng được cải thiện, đã thúc đẩy giải quyết nợ xấu. Nhờ các biện pháp chủ động tái cơ cấu nợ theo biến động chu kỳ và bán nợ xấu, từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2019, bình quân mỗi tháng có 9,6 nghìn tỷ VND nợ xấu được xử lý.Với chính sách ứng phó chủ động, quá trình củng cố tài khóa vẫn tiếp diễn với mục tiêu tiếp tục giảm nợ công. Nhiều khả năng cuối năm 2019, nợ công xuống còn 56% GDP, giảm 8% so với năm 2016. Điều này không chỉ là tín hiệu tích cực về cam kết duy trì nợ, mà còn tạo thêm dư địa tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong điều hành nền kinh tế, nhờ mức tăng từ thuế đạt 10,4%; phí và ngoài thuế tăng 14,3%, thu ngân sách 3 quý đầu năm tăng trên 10% so cùng kỳ năm trước. Mặc dù cải cách thuế đem lại kết quả, nhưng chưa đủ để đảo ngược được tỷ lệ huy động nguồn thu đang đà suy giảm.Tỷ lệ huy động thu từ thuế giảm từ 23% GDP năm 2010 xuống còn khoảng 18% GDP trong năm 2018. Thu ngoài thuế tăng lên tạo điều kiện cho Chính phủ tăng thu, song số thu này chủ yếu là khoản thu một lần. Huy động thu giảm để lại hệ lụy đến chính sách tài khóa của Chính phủ, đặc biệt đối với các chương trình đầu tư công.

Chi tiêu công thấp hơn trong năm 2019 do chi đầu tư đã giảm 5,6% so với năm 2018. Đầu tư công thấp do chính sách củng cố tài khóa của Chính phủ, nhưng cũng phản ánh mức độ giải ngân chậm theo chương trình đầu tư đã được Quốc hội phê chuẩn. Trong 3 quý đầu năm, tỷ lệ thực chi đầu tư chỉ đạt 49%, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2011- 2014. Giải ngân chậm trong các chương trình đầu tư công đã trở thành mối quan ngại cho phát triển tương lai.

Mặc dù nhu cầu toàn cầu yếu đi, song vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam đang đứng vững với thặng dư tài khoản vãng lai xấp xỉ 2% GDP. Kinh tế đối ngoại có khả năng chống chịu ở thời điểm mà thị trường toàn cầu và ở các nền kinh tế mới nổi đang phải chấp nhận suy giảm về lưu lượng thương mại và dòng vốn đầu tư. Nhờ cán cân kinh tế đối ngoại ổn định, Việt Nam đã tăng dự trữ ngoại hối thêm tương đương với  0,4 tháng nhập khẩu từ tháng 12/2018 đến tháng 6/2019.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện quản lý tỷ giá theo cơ chế thị trường, coi đó là công cụ chính để hấp thụ tác động của những biến động bên ngoài đối với kinh tế trong nước. Mặc dù đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng đô-la Mỹ, nhưng tỷ giá thực hiệu lực đã tăng khoảng 2,8% tính từ tháng 1/2019. Giá trị đồng nội tệ tăng được thực chất là do thị trường phản ứng tích cực với thặng dư tài khoản vãng lai.

Cho dù đạt được kết quả xuất khẩu ngoạn mục, nhưng Việt Nam cũng không tránh khỏi tác động do sức cầu bên ngoài yếu đi và môi trường bất định toàn cầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 8,4% trong 3 quý đầu năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 15,8% cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản, vốn là lợi thế xuất khẩu, cũng giảm khoảng 6%. Trong đó, xuất khẩu cà phê và gạo lần lượt giảm mạnh ở mức 21% và 10%.

Nhìn chung,kết quả xuất khẩu các mặt hàng chế tạo và chế biến ở Việt Nam đã thể hiện sự khác biệt lớn về thị trường xuất khẩu. Trong 3 quý đầu năm, xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 28%, nhưng tăng trưởng xuất khẩu đến các thị trường ngoài Mỹ chỉ tăng khoảng 3,8% , giảm 12% so với cùng kỳ của năm 2018.

Cùng với những hạn chế xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong năm 2019 cũng có chiều hướng suy giảm, đã từ mức tăng 11,5% cùng kỳ năm 2018, giảm xuống còn 8,4% trong 9 tháng đầu năm. Ngược với xu thế nhập khẩu vật tư hàng hóa trung gian, nhập khẩu máy móc, thiết bị gia tăng ở mức 12,3% và hàng tiêu dùng lên tới 14,2% .

Trong xu thế tăng trưởng của nền kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn giữ vị trí quan trọng. Với chi phí lao động rẻ, mở cửa thương mại mạnh mẽ cùng với lợi thế về địa lý, Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ước tính trong mười tháng đầu năm, nguồn vốn FDI đăng ký đã vượt qua 29 tỷ USD. Đến nay, cả nước đã tiếp nhận đầu tư của trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng số vốn cam kết cộng dồn lên trên 358 tỷ USD trong các ngành chế tạo, chế biến, bất động sản, điện và khí đốt …Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp khoảng 70% vào kim ngạch xuất khẩu và 20%vào GDP cả nước, đồng thời cũng tạo được hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp.

Phân tích những số liệu chính thức gần đây cho thấy, có sự chuyển dịch dòng vốn FDI từ đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới sang đầu tư cho mua lại & sát nhập (M&A).Đầu tư vào các cơ sở sản xuất kinh doanh mới giảm từ 15% trong năm 2018 tới 22% trong chín tháng đầu năm nay; Ngược lại, giá trị góp vốn và mua cổ phần tại các doanh nghiệp trong nước của nhà đầu tư nước ngoài lại tăng từ 0,28 tỷ USD/tháng(năm 2016) lên 1,2 tỷ USD/tháng (trong 9 tháng đầu năm 2019),tăng gần 4,3 lần. Tăng đầu tư cho M&A có thể do các doanh nghiệp nước ngoài quan tâm tới nhu cầu tiêu dùng trong nước gia tăng. Mặt khác, các chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp với những thủ tục thuận lợi hơn so với xin cấp phép đầu tư vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới. Đầu tư M&A có thể đem lại tác động tích cực nếu chủ sở hữu mới đem công nghệ mới đến cho các doanh nghiệp trong nước. Song theo các nhà nghiên cứu,nếu xu thế này tiếp tục mở rộng,có thể dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai(The World Bank 2019 Tr.28)

3. Triển vọng tăng trưởng dưới góc nhìn nghiên cứu và của các định chế tài chính

Mặc dù đạt được những kết quả ấn tượng, song nền kinh tếViệt Nam vẫn còn không ít khó khăn, phải đối mặt với nhiều thách thức, nổi bậttiến độ giải ngân vốn đầu tư công thấp; thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh lây lan trên diện rộng, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất và xuất khẩu của ngành nông nghiệp.Với độ mở khá rộngtrong tiến trình hội nhập,nền kinh tế cũng chịu tác động đan xen bởi các diễn biến của kinh tế thế giới ngày càng phức tạp, khó lường.

Từ góc nhìn khu vực, trong báo cáo Cập nhật triển vọng Phát triển châu Á(ADO) 2019, Ngân hàng Phát triển châu Á(ADB ) nhận xét, mặc dù tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội có giảm so với năm 2018, song nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng vững vàng,  bất chấp môi trường bên ngoài suy yếu. Các dự báo về lạm phát được ADB điều chỉnh giảm từ 3,5% xuống còn 3,0% trong năm 2019 và từ 3,8% xuống 3,5%vào năm 2020.

Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam, Eric Sidgwick cho rằng, căng thẳng thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc kéo theo sự sụt giảm thương mại toàn cầu,song  nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh nhờ cầu nội địa tiếp tục gia tăng và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được duy trì. Ông nhấn mạnh“Triển vọng tiêu dùng trong nước tiếp tục sáng sủa, được hỗ trợ bởi sự gia tăng thu nhập, mở rộng việc làm và lạm phát duy trì ở mức thấp;việc ký kết hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hứa hẹn sẽ mở ra khả năng tiếp cận thị trường cho các hoạt động thương mại và đầu tư lớn hơn”.

Trong báo cáo ADO năm 2019, ADB dự báo, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ giảm nhẹ, nhưng vẫn duy trì ở mức khá cao, đạt 6,8% trong năm 2019 và 6,7% trong năm 2020. Theo đó, nền kinh tế sẽ tiếp tục phát triển toàn diện dựa trên nền tảng bền vững của công nghiệp chế biến, chế tạo định hướng xuất khẩu, luồng vốn FDI và nhu cầu nội địa tăng cao. Cũng theo ADB, cải thiện môi trường kinh doanh sẽ là nhân tố khuyến khích đầu tư tư nhân, cũng như những nỗ lực tăng cường quan hệ với các đối tác toàn cầu thông qua nhiều hiệp định thương mại.(Nguyễn Minh Cường 2019)

Rủi ro bên ngoài đối với kinh tế của Việt Nam có thể đến từ tốc độ tăng trưởng của những nền kinh tế lớn như Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc… giảm mạnh. Rủi ro trong nước có thể gây ra bởi tiến độ chậm của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước yếu kém hơn nhiều so với mục tiêu chính phủ đề ra (ADB 2019).

Nghiên cứu động thái phát triển của nền kinh tế, các nhà phân tích nhận thấy; nhờ điều kiện khí hậu và vệ sinh được cải thiện, ngành nông nghiệp Việt Nam có thể  phục hồi từ kết quả tương đối yếu của năm 2019; các ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng nhờ vào nhu cầu trong nước tiếp tục gia tăng. Từ giả định xuất khẩu Việt Nam bị ảnh hưởng nhẹ bởi suy giảm trên các thị trường toàn cầu dần hồi phục kể từ năm 2020, theo những dự báo mới nhất; Chuyên gia Ngân hàng Thế giới cho rằng, đóng góp của khu vực công sẽ tăng nhẹ nhờ cải thiện về hiệu suất thực hiện chương trình đầu tư công và những cải cách tiếp theo trong các nội dung chiến lược về DNNN, thị trường tài chính , phát triển chuỗi giá trị  nhằm đẩy mạnh phát triển khu vực tư nhân và nâng cao năng suất.

Trong bối cảnh Đông Á thái Bình Dương giảm đà tăng trưởng, căng thẳng thương mại và bất đinh toàn cầu gia tăng, Ngân hàng Thế gới (W.B) nhận xét, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi tâm lý kinh tế toàn cầu do mở cửa thương mại mạnh mẽ và dư địa chính sách hạn chế. Mặc dù tăng trưởng kinh tế có phần chững lại so với năm trước, song triển vọng vẫn mang tính tích cực.Tăng trưởng GDP sẽ tiếp tục được trợ lực bởi thị trường lao động; các ngành có năng suất cao như chế tạo, chế biến, dịch vụ hiện đại tạo nhiều việc làm;chính sách tiền tệ duy trì theo hướng cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và ổn định vĩ mô.

Cho dù xuất khẩu duy trì tốt, nhưng Việt Nam cũng không thể tránh khỏi tác động căng thẳng toàn cầu leo thang. Với tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP lên gần 200%, Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ do độ bất định cao và khả năng các chuỗi giá trị toàn cầu bị gián đoạn, có thể trở thành đối tượng của các biện pháp thuế quan và bảo hộ thương mại.

Trong đà phát triển chung của các nền kinh tế, W.B nhận định, triển vọng trung hạn của Việt Nam vẫn tích cực Tăng trưởng GDP theo giá so sánh dự kiến trong năm 2019 đạt 6,8%, sau đó xoay quanh 6,5% trong 3 năm kế tiếp, bám theo xu hướng sản lượng tiềm năng . Các chỉ tiêu dự báo về kinh tế Việt Nam giai đoạn 2017-2021 được thể hiện trong bảng 1

Từ những dự báo đưa ra, tỷ lệ lạm phát năm 2019 được duy trì ở mức 3%, kể cả khi có áp lực phát sinh trong thời gian tới do Chính phủ tăng giá một số mặt hàng thuộc sự quản lý của Nhà nước. Giá cả lương thực, thực phẩm tuy nhạy cảm với tình hình khí hậu nhưng được dự báo chỉ tăng ở mức vừa phải do hiệu quả của ngành nông nghiệp được cải thiện.

Về tổng thể, ngành tài chính vẫn duy trì quan điểm chính sách cẩn trọng, giữ cung tiền và tăng trưởng tín dụng ở mức phù hợp với tốc độ tăng trưởng dự báo. Thặng dư tài khoản vãng lai có thể chững nhẹ vì nhu cầu suy giảm ở các thị trường nước ngoài; nhưng. dòng vốn FDI vẫn có khả năng ổn định mặc dù có xu hướng chuyển dịch từ đầu tư theo dự án vào cơ sở sản xuất kinh doanh mới sang M&A.

Phù hợp với cam kết mạnh mẽ của chính phủ về tiếp tục giảm nợ công. Cân đối ngân sách có thể đạt được qua tăng thu nội địa, nhờ vào hàng loạt cải cách về chính sách và quản lý thuế. Từ quyết tâm của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu suất phân bổ tài chính chi tiêu thông qua cải thiện kế hoạch, lựa chọn và triển khai theo các dự án, nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm bội chi từ 3,4% GDP năm 2019 xuống 3,2% GDP trong năm 2021

Từ góc nhìn chuyên gia trong nước, các nhà nghiên cứu thuộc Viện  Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách  Việt Nam (VEPR) cho rằng, với mức tăng trưởng đạt được 7,31% trong Quý 3, mục tiêu tăng trưởng từ  6,6% đến 6,8% trong năm 2019 Quốc hội đề ra hoàn toàn có thể đạt được ( VEPR 2019) .

Trước những biến động do căng thẳng thương mại Mỹ-Trung và gần đây giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, ảnh hưởng bất lợi đến chuỗi cung ứng toàn cầu, giá trị của những đồng tiền mạnh và tài sản, dự báo tương lai của nền kinh tế Việt Nam trở nên bất định hơn, có thể chịu ảnh hưởng bởi các cú sốc từ thị trường thế giới. Trong bối cảnh hiện tại của nền kinh tế, các nhà nghiên cứu dự báo kinh tế Việt Nam quý IV năm 2019 có thể tăng trửơng chậm lại, đạt 7,26% với lạm phát ở mức 2,45% và tăng trưởng kinh tế cả năm sẽ đạt 7,05%.

Mặc dù dự báo có nhiều tín hiệu lạc quan, song triển vọng trung hạn vẫn còn những rủi ro theo hướng suy giảm cả từ trong nước và bên ngoài. Nhìn từ trong nước, chậm trễ trong triển khai những cải cách cơ cấu có thể làm cho viễn cảnh tăng trưởng trung hạn trở nên xấu đi. Chương trình cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN, sau khi được khởi đầu đầy hứa hẹn vào năm 2017 đã bị chững lại đáng kể trong những tháng qua.

Nhìn từ bên ngoài, tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể ảnh hưởng xấu đến đà xuất khẩu trong ngắn hạn, khi nền kinh tế Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài có thể đình hoãn hoặc hủy dự án và nền kinh tế Việt Nam có thể mất đi động lực tăng trưởng.

Trong xu hướng đẩy nhanh sự phát triển khu vực tư nhân của nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với những trở ngại nghiêm trọng, cản trở đến sự phát triển. Thách thức lớn đối với doanh nghiệp tư nhân trong nước là năng suất dựa trên giá trị gia tăng của người lao động thấp, chưa đạt 4000 USD/năm, thấp hơn từ 2 đến 5 lần so với DNNN và doanh nghiệp FDI. Điều đáng quan ngại là năng suất này đang giảm do nhiều cản trở trong những năm qua. Ngoài thủ tục hành chính, doanh nghiệp tư nhân đang phải đối mặt với nhiều cản trở cần được tháo gỡ. Kết quả khảo sát cho thấy, 22% số doanh nghiệp gặp trở ngại nghiêm trọng trong tiếp cận tài chính, 17% phải cạnh tranh phi chính thức và số doanh nghiệp thiếu lao động được đào tạo chiếm trên 10% (World Bank 2019)

Thay lời kết luận

Mặc dù kinh tế toàn cầu tiếp tục trầm lắng với tăng trưởng kinh tế và thương mại thấp hơn dự kiến, song nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đạt mức tăng trưởng 6,8% trong năm 2019, Đây là một trong những tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới.

Với chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng, lạm phát trong nước theo chiều hướng giảm và nợ công xuống dưới mức trần quy định, các tổ chức tài chính thế giới dự báo 2-3 năm tới nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng trên 6,5% và các cân đối ngân sách và tài khoản kinh tế đối ngoại vẫn trong vòng kiểm soát.

Mặc dù có tiềm năng để duy trì thành công cho sự phát triển, song Việt Nam vẫn  đang chịu nhiều rủi ro, thách thức cả từ trong nước và phía bên ngoài, đòi hỏi phải có những cải cách táo bạo để đất nước có thể nắm bắt cơ hội trong tương lai và quản lý được các rủi ro. Với tầm nhìn dài hạn, các nhà nghiên cứu cho rằng, lĩnh vực cải cách quan trọng cần được quan tâm trong xây dựng lộ trình phát triển đó là: Tìm cách giải quyết điểm yếu cơ bản trong mô hình tăng trưởng vốn quá phụ thuộc vào tích lũy các nhân tố với sự đóng góp hạn chế để tăng năng suất và những vấn đề liên quan đến thể chế thị trường. Mặt khác, cần ưu tiên phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nhằm giảm nhẹ rủi ro theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh và huy động tài chính dài hạn.

Bảng 1: Một số chỉ tiêu dự báo kinh tế Việt Nam giai đoạn 2017-2021

Đơn vị %

Chỉ tiêu

2017

Ước 2018

Ước 2019

Dự báo 2020

Dự báo 2021

Tăng trưởng GDP (%)

6.8

7,1

6.8

6,5

6,5

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân ( %)

3,5

3,5

3.0

3,3

3,3

Cân đối tài khoản vãng lai (%)

-0,7

2,3

1.9

1,4

1,3

Cân đối tài khóa ( % GDP)

-2,7

-3,5

-3,4

-3,4

-3,2

Nợ công ( % GDP)

61,4

58,4

56,1

54,3

53,3

Nguồn World Bank 2019

Tài liệu tham khảo

The World Bank (2019) Kinh tế Việt Nam 2019 ước tăng 6,8%, nhưng cần cải cách để khơi thông

 tiềm năng của thị trường vốn Thông cáo báo chí; Hà Nội 17 tháng 12

The World Bank (2019). Điểm lại tháng 12/2019 Bước chuyển về tài chính mở lối cho các thị trường

vốn nhằm phục vụ tương lai phát triển của Việt Nam;  Hà Nội tháng 12

ADB (2019)         Nền kinh tế Viêt Nam vẫn vững vàng trong bối cnhr môi trường bên ngoài suy yếu  Thông cáo báo chí . Hà nội 25 tháng 9

ADB  (2019 )              Vietnam Economic Oulook Update and Prospects for 2019-2020 September25

VEPR( 2019)          Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam quý 3/2019 . Hà Nội, tháng 10

Nguyễn Minh Cường(2019)     Cập nhật Báo cáo triển vọng châu Á năm 2019 ; Hà Nội 25 tháng 9