Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chiến trường không chỉ diễn ra ngoài mặt trận mà còn diễn ra ngay trong lòng địch - nơi những chiến sỹ tình báo xuất sắc nhất của quân đội ta lặng lẽ lập những chiến công.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam ta đã tạo ra “những chiến công lịch sử mà như huyền thoại.” Một trong những “huyền thoại” ấy là câu chuyện về những chiến sỹ tình báo đầy bản lĩnh, trí tuệ đã “chui sâu, bám chắc” trong lòng địch nhằm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tình báo là tai mắt của Đảng, của quân đội, trách nhiệm của nó rất quan trọng… Muốn biết địch thì phải có tình báo giỏi. Muốn khỏi địch biết ta, cũng phải có tình báo giỏi...”
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...”
(“Sao chiến thắng” - Chế Lan Viên)
Tình yêu Tổ quốc, nỗi mong mỏi đất nước được độc lập tự do, giang sơn thu về một mối đã trở thành động lực, thành niềm tin để những chiến sỹ tình báo - những “vì sao chiến thắng” - thêm vững vàng trong cuộc chiến tàn khốc không tiếng súng giữa lòng địch.
Những cống hiến, hy sinh thầm lặng trong suốt những năm tháng hoạt động dưới vỏ bọc “kẻ thù” đã đưa nhiều chiến sỹ tình báo trở thành huyền thoại có một không hai trong lịch sử quân sự Việt Nam.
Những tên tuổi ấy mãi mãi được Tổ quốc ghi công, được nhân dân ghi nhớ, như Đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo, điệp viên hoàn hảo Phạm Xuân Ẩn, "Ông cố vấn" Vũ Ngọc Nhạ, nữ tình báo vẽ bản đồ bên kia vỹ tuyến 17 Đinh Thị Vân, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (bí danh Ba Quốc), Đại tá Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang), nữ tình báo Nguyễn Thị Mỹ Nhung (bí danh Tám Thảo)...
Trong cuốn “Tình báo kể chuyện” của mình, Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang) khẳng định: “Có những con người tình báo dũng cảm, thông minh, sáng tạo, có những người dân đô thành không sợ hiểm nguy mà còn tích cực tham gia công tác cách mạng… Tất cả hợp thành lực lượng bách chiến, bách thắng mà kẻ thù quen thói hợm hĩnh không lường được hết sức mạnh…”
“Đơn độc” cận kề với trăm mối hiểm nguy
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp với nhiều yếu tố, trong đó có sự đóng góp rất quan trọng của lực lượng Tình báo quân sự Việt Nam.
Gác lại tình riêng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, “bí mật, khôn khéo, cẩn thận, kiên nhẫn,” “dựa vào dân, đi sát địch,” các chiến sỹ tình báo đã xây dựng được những tổ chức bí mật, thậm chí nhiều người đã “chui sâu, bám chắc” thâm nhập vào các cơ quan đầu não địch, hoạt động lâu dài mà không hề bị lộ.
Điển hình như Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ (bí danh Hai Long) - "Ông cố vấn" cho 3 đời tổng thống ngụy quyền Sài Gòn. Với chức danh “Cố vấn cao cấp,” ông đã khai thác được nhiều tại liệu cơ mật trong Phủ tổng thống.
Ông cũng là người xây dựng cụm tình báo chiến lược nổi tiếng A22, từng làm rúng động chính trường Sài Gòn trong suốt những năm cuối của thập niên 1960.
Với mạng lưới 42 điệp báo viên, hoạt động dưới nhiều chức danh, cấp bậc từ cao tới thấp trong chính quyền ngụy Sài Gòn, ông và đồng đội đã cung cấp nhiều thông tin, tài liệu quan trọng góp phần vào chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bằng những hoạt động khéo léo và đầy biến hóa của mình, tranh thủ những yếu tố “tranh tối tranh sáng” đầy bất ổn của chính trường Sài Gòn, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, một trong những huyền thoại xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam, đã thâm nhập trong quân đội chính quyền Sài Gòn.
Trong thời gian làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), ông đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu mật liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu, thả hơn 2.000 tù chính trị, khôn khéo lái các cuộc hành quân “tảo thanh” của địch vào chỗ không người, bảo toàn lực lượng cách mạng, góp phần vào thắng lợi của phong trào Đồng Khởi Bến Tre.
Dưới danh nghĩa một sỹ quan cao cấp quân đội, có tiếng nói, có ảnh hưởng lớn đối với chính trường Sài Gòn, ông đã tham gia, tổ chức hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển nền chính trị miền Nam những năm 1964-1965, gây mất ổn định nghiêm trọng chế độ Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam.
Ông chính là nguyên mẫu để nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng thành công nhân vật điệp viên bản lĩnh, thông minh, gan góc Nguyễn Thành Luân trong bộ phim nổi tiếng “Ván bài lật ngửa.”
Nhờ tạo vỏ bọc bình phong tốt trong cơ quan an ninh và tình báo địch, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (bí danh Ba Quốc) được tuyển mộ và làm việc suốt 20 năm tại Phủ đặc ủy trung ương tình báo ngụy.
Nhờ những báo cáo và tài liệu tuyệt mật ông gửi ra, ta đã triệt phá 35 ổ gián điệp địch tung vào các vùng giải phóng ở miền Nam và cả miền Bắc.
Ông cũng là người “gợi ý” cho Nguyễn Cao Kỳ đảo chính lật Nguyễn Văn Thiệu, giải cứu Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, “tài liệu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc rồi."
Vượt qua muôn vàn hiểm nguy, lúc nào cũng trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, những chiến sỹ tình báo lặng thầm bám sát địch, theo dõi, điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin, phân tích, nhận định và báo cáo về cấp trên.
Họ luôn “đơn độc” cận kề với hàng trăm mối hiểm nguy, có những lúc lên đến cực đỉnh, bởi phải sống và hoạt động ngay giữa một rừng súng đạn hiểm ác ngay giữa trung tâm đầu não của địch.
Để đảm bảo an toàn cho tổ chức, nhiều người trong số họ không dám gặp vợ con, ngay cả người thân cũng không dám nhận. Nhiều chiến sỹ tình báo đã trở thành "đối tượng" nằm trong danh sách hồ sơ đặc biệt và là "con cá bự” mà cơ quan mật vụ của chính quyền Mỹ-ngụy Sài Gòn ráo riết truy lung và treo nhiều thưởng lớn, điển hình như Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang) - nguyên Cụm trưởng cụm tình báo H63 (trước năm 1967 là A18), Chính ủy Lữ đoàn 316 đặc công biệt động, mở đường tiến đánh Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Xác định “ra đi là không có ngày trở về,” những chiến sỹ tình báo luôn nguyện hy sinh thân mình để hoàn thành nhiệm vụ. Sau hai cuộc đảo chính bất thành, dù Mặt trận giải phóng yêu cầu rời khỏi Sài Gòn nhưng Phạm Ngọc Thảo vẫn quyết trụ lại để tiến hành cuộc đảo chính cuối cùng. Việc lớn không thành, bị bắt và tra tấn dã man nhưng Phạm Ngọc Thảo vẫn không để lộ tung tích của mình. Cho đến lúc hy sinh, không ai biết ông là một chiến sỹ tình báo cộng sản.
Cung cấp những thông tin vô cùng giá trị
Với vai trò là “tai mắt của Đảng, của Quân đội,” các chiến sỹ tình báo đã cung cấp nhiều thông tin vô cùng giá trị, giúp cho Đảng và Bộ Chính trị đánh giá, dự đoán đúng những chuyển biến tình hình, đưa ra những chỉ đạo chiến lược kịp thời làm nên những chiến thắng lẫy lừng.
Nhờ những thông tin tình báo chính xác, kịp thời, ta đã phát hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn của địch, như: kế hoạch chống phá tổng tuyển cử vào năm 1956 trong Hiệp định Geneva, nắm chắc kế hoạch “tố cộng, diệt cộng,” lập ấp chiến lược, âm mưu hất cẳng Pháp xâm lược miền Nam của Mỹ, phục vụ cho sự chỉ đạo kịp thời của Đảng ở miền Nam.
Dưới vỏ bọc “kẻ thù”, nhiều chiến sỹ tình báo đã thu thập được những thông tin có giá trị cao, như chiến lược “chiến tranh đặc biệt,” “chiến tranh cục bộ,” “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ-ngụy; các kế hoạch quân sự hàng năm như AB141, AB142, AB143, AB144…; các kế hoạch mùa khô 1965-1966 và 1966-1967; kế hoạch về cuộc hành quân Lam Sơn-719 của địch đánh ra đường 9 Nam Lào, với mục tiêu xóa bỏ đường mòn Hồ Chí Minh, cắt đứt sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam bằng đường bộ; nắm chắc âm mưu, ý đồ của Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc; hoạt động của máy bay chiến lược B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972, phục vụ hiệu quả cho chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” giành thắng lợi…
Với sự khôn khéo, cẩn thận, kiên nhẫn, nhiều chiến sỹ tình báo còn vận động, chuyển hóa được quần chúng, kể cả những người đứng trong hàng ngũ địch phục vụ cho cách mạng.
Bằng các mối quan hệ của mình, nữ tình báo Đinh Thị Vân đã vận động được Đỗ Trọng Quyên - chánh văn phòng, Phó tổng tham mưu trưởng quân đội ngụy - cung cấp nhiều tin tức, tài liệu quan trọng, trong đó có thông tin kịp thời về việc Mỹ sẽ đổ quân vào miền Nam Việt Nam sau khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” thất bại; tài liệu về cuộc hành quân quy mô lớn Junction City của Mỹ, với 40.000 quân đánh vào căn cứ Tây Ninh của Trung ương cục miền Nam năm 1967, giúp ta chủ động đối phó làm thất bại âm mưu của địch.
Bà cũng là người đã vẽ bản đồ phòng ngự của quân đội Sài Gòn ở phía Nam vĩ tuyến 17, trong giai đoạn 1959-1960.
Những thông tin mật, thậm chí là tuyệt mật của các chiến sỹ tình báo cũng giúp ta bảo toàn được lực lượng.
Năm 1969, cụm trưởng tình báo H67 đã cấp tốc chuyển lên cấp trên thông tin địch định dùng máy bay chiến lược B52 hủy diệt căn cứ Trung ương cục miền Nam và Bộ tư lệnh Miền, do ông Nguyễn Văn Lễ (nghị sỹ Quốc hội Sài Gòn - người được vận động làm việc cho tình báo cách mạng) cung cấp.
Nhờ thông tin cơ mật này, căn cứ của ta đã di chuyển kịp thời đến một địa điểm khác, tránh được cuộc tập kích quy mô lớn và nhiều đợt rải thảm liên tục bằng B52 từ 8 giờ tối hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau, tại căn cứ Sóc Mong trong phạm vi 20km2.
Đặc biệt, những thông tin tình báo của Đại tá Nguyễn Văn Minh - văn thư bảo mật của đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn - chuyển về đã giúp Đảng và Bộ chỉ huy chiến dịch khẳng định Mỹ không đưa quân trở lại nếu ta đánh lớn vào giải phóng Sài Gòn.
Thông tin này đã giúp Bộ chính trị có thêm cơ sở quyết định mở cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong thời gian ngắn nhất để giải phóng miền Nam, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Có thể nói, những chiến sỹ tình báo quân sự Việt Nam đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với đỉnh cao là Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao phó; đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, viết nên những trang sử hào hùng của ngành Tình báo Quốc phòng Việt Nam.
Tên tuổi và sự nghiệp của họ không chỉ làm hàng triệu người con đất Việt cảm phục, ngưỡng mộ, mà còn làm cho đối phương cũng phải “ngả mũ kính chào”.