Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình- Kỳ 4

Tác giả Phạm Việt Long trong sách Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình đã nghiêm túc tiếp thu người đi trước về phương pháp tiếp cận văn hoá và vận dụng công nghệ hiện đại để xử lý, khảo sát tư liệu, đó là nguyên nhân quan trọng đem đến những đóng góp mới trong công trình nghiên cứu của ông và đây cũng là kinh nghiệm cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểu bản sắc văn hoá Việt Nam (GS.TSKH Phan Đăng Nhật).

bia-tuc-ngu-ca-dao-1624922325.jpg 

Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình- Kỳ 4

CHƯƠNG BA

NHỮNG QUAN HỆ CHÍNH TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT 

THỂ HIỆN QUA CA DAO

Trong phần khảo cứu này, chúng tôi dựa vào Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên. Theo các tác giả, số câu ca dao có trong sách là 11.825 đơn vị. Qua cách chọn lựa của chúng tôi theo tiêu chí gia đình thì trong 11.825 đơn vị này có 1.179 câu ca dao nói về gia đình, chiếm tỷ lệ 9,97% (gần bằng tỷ lệ này trong tục ngữ). Phần mềm về ca dao cũng đã giúp chúng tôi thống kê nhanh chóng và chính xác những câu ca dao theo những tiêu chí phù hợp với yêu cầu nghiên cứu về phong tục tập quán thể hiện trong quan hệ gia đình, tuy chúng tôi mới chọn nhập vào phần mềm này 6.995 đơn vị ca dao về gia đình và có liên quan đến gia đình.

Số câu ca dao về gia đình có những nội dung chính như sau:

- Phản ánh các mối quan hệ trong gia đình:

Trong tổng số 1.179 câu ca dao nói về gia đình, chúng tôi thống kê được như sau:

Quan hệ vợ chồng: 690 câu, chiếm 58,52% tổng số câu ca dao về gia đình.Quan hệ cha mẹ con: 446 câu (37,79%).Anh chị em: 27 câu (2,29%).Dâu, rể: 87 câu (7,37%).Phản ánh tính chất của các mối quan hệ trong gia đình: Gắn bó: 291 câu (vợ chồng: 261 câu. Cha mẹ con: 45 câu). Lỏng lẻo: 128 câu (Vợ chồng: 107 câu. Cha mẹ con : 14 câu).Phản ánh vấn đề hôn nhân: 170 câu.

Từ số lượng các câu ca dao theo nội dung được thể hiện, chúng tôi lựa chọn những vấn đề sau để khảo cứu:

Quan hệ vợ chồng.Quan hệ cha mẹ con.Quan hệ nàng dâu mẹ chồng.Vấn đề hôn nhân.

1. QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Như đã thống kê trên đây, trong Kho tàng ca dao người Việt, chủ đề gia đình có 1.179 câu ca dao, trong đó quan hệ vợ chồng chiếm số lượng nhiều nhất với 690 câu. Những nội dung chính trong quan hệ gia đình được phản ánh qua ca dao như cách thức ứng xử, những biểu hiện tích cực hoặc tiêu cực, sự gắn bó hay không gắn bó… cũng được phản ánh thông qua mối quan hệ vợ chồng là chính. Trong mục này, chúng tôi khảo sát quan hệ gia đình thông qua quan hệ vợ chồng được phản ánh trong 690 câu ca dao nói trên.

1.1. Những nét đặc trưng trong quan hệ vợ chồng thể hiện qua ca dao

Như đã nói ở phần mở đầu, số công trình nghiên cứu tục ngữ, ca dao về gia đình không có nhiều, phần lớn là những ý hoặc mục trong một công trình; chưa có một công trình độc lập nào nghiên cứu về chủ đề này. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nêu lên đặc trưng của quan hệ vợ chồng người Việt thể hiện qua ca dao là hoà thuận và gắn bó. Tuy vậy, cũng có một số tác giả chỉ phân tích sâu về những nỗi bất hạnh trong quan hệ vợ chồng, quy kết đó là hậu quả của quan niệm và cách thức ứng xử theo kiểu chế độ phong kiến, chịu sự áp chế của chế độ phụ quyền, vì thế, trong quan hệ vợ chồng, người phụ nữ luôn luôn bị thiệt thòi, cay đắng. Học giả Nguyễn Bách Khoa đã đối lập người đàn ông với người đàn bà, nhìn nhận họ trong mâu thuẫn không thể điều hoà được. Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:

"Luân lý phụ quyền đặt người đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ Việt Nam đã mỉa mai, giày đạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu của đàn ông đem ra trào phúng, để chứng rằng địa vị ưu thắng của đàn ông không được họ công nhận. Cái tính xấu thứ nhất mà họ chê bai ở đàn ông là tính hoang toàng, đĩ thoã, phụ tình:

Khi thì là một cậu lính khinh bạc vợ:

Bông bông nẩy lộc ra hoa

Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng

Trẩy ra gánh gánh gồng gồng

Trẩy ra thăm chồng bẩy bị còn ba

"Nào ai nhắn nhủ mi ra

Mi ngồi mi kể con cà con kê?

Muốn tốt quẩy bị mà về

Việc quan tao chịu một bề cho xong

Xưa kia tao ở trong phòng

Bây giờ tao đã vào trong hàng quyền"

Hai tay bưng đĩa giầu lên

Trước lạy hàng quyền sau lạy cậu cai

|Chồng tôi tham sắc tham tài

Một chĩnh đôi gáo, tôi ngồi sao yên

Tôi xin chiếc đũa đồng tiền

Anh đi lấy vợ, tôi xin lấy chồng

Anh đi lấy vợ cách sông

                     Tôi về lấy chồng giữa ngõ anh ra."[63:103-104].

Sau đó, Nguyễn Bách khoa dẫn ra các câu ca dao để chứng minh cho nhận định của mình về sự châm chọc của phụ nữ trước những thói xấu của đàn ông: đàng điếm, không đứng đắn, cờ bạc hoang toàng, tham ăn, ham sắc phụ tình, rồi phân tích:

"Hạng người như thế mà bắt đàn bà phải phục tòng, trung thành, trinh khiết, đức hạnh, cần kiệm, cam chịu thì thật là một sự tối ư vô lý. Nghĩ thế nên đàn bà họ tưởng có quyền đối lại cái ích kỷ của đàn ông bằng một thái độ ích kỷ chẳng kém. Họ chống lại từng lời nói, từng ý kiến, từng hành vi của đàn ông. Trước hết, họ đem cái địa vị "chồng" của đàn ông ra giễu cợt:

Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi! Cho tôi mượn cái gầu sòng

Để tôi tát nước múc chồng tôi lên." [63:107].

Tiếp đó, Nguyễn Bách Khoa nhận định, dẫn chứng và phân tích như sau:

                        "Nhiều khi họ lại trâng tráo hơn thế nữa:

Hỡi cô mặc yếm hoa tằm

Chồng cô đi lính cô nằm với ai?

Cô đẻ thằng bé con giai

Chồng về chồng hỏi: con ai thế này?

Con tôi đi kiếm về đây

Có cho nó gọi bằng thầy thì cho.

Thật là một mũi tên thuốc độc bắn trúng tim luân lý phụ quyền. Sự đi ăn nằm với người khác mà được thú nhận một cách táo tợn như thế tỏ ra rằng người đàn bà cũng đã hiểu cái độ lượng thuỷ chung của chồng lắm lắm." [63:108].

Sau nhiều đoạn nhận định, dẫn chứng và phân tích dẫn chứng theo mô hình trên đây, Nguyễn Bách Khoa đi đến kết luận:

"Người đàn bà đã nổi loạn. Họ đã chống lại triết lý phụ quyền. Họ đã cố đạp đổ cái hình tượng "Đàn ông". Trong khi chống phụ quyền, họ đã tỏ ra một thái độ cương quyết, cực đoan trắng trợn. Họ đòi sự bình quyền với đàn ông ở các phương diện." [63:114].

Nguyễn Bách Khoa viết Kinh Thi Việt Nam trong bối cảnh xã hội đang chống phong kiến mạnh mẽ, cho nên về mặt tâm lý, dễ dẫn đến lối phê phán mạnh mẽ như trên, cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, ngay trong phương pháp, tác giả đã có những sai lầm, cho nên dẫn đến sự cực đoan về mặt khoa học. Cần lưu ý rằng, cùng trong một bối cảnh xã hội, nhưng với phương pháp nghiên cứu khoa học, khách quan hơn, nhiều tác giả đã không mắc phải sai lầm như Nguyễn Bách Khoa. Nguyễn Bách Khoa đã không nhìn nhận vấn đề thái độ của phụ nữ đối với chồng trong hệ thống các biểu hiện, để thấy toàn diện cả hai mặt tích cực và tiêu cực, mà chỉ dựa trên liên tưởng chủ quan của mình, kết hợp với phương pháp lựa tìm chứng cứ theo hướng chủ quan, phiến diện, do đó đã dẫn đến kết luận thiếu toàn diện, không chính xác. Thực ra, theo thống kê và so sánh trong hệ thống mà chúng tôi đã sử dụng ở các chương trên, có thể thấy thái độ chủ đạo của phụ nữ đối với chồng là thương yêu và quý trọng chứ không phải là khinh mạn như nhận định của Nguyễn Bách Khoa.

Nghiên cứu tục ngữ, chúng tôi đã rút ra kết luận rằng đặc trưng của quan hệ vợ chồng người Việt là gắn bó trong hoà thuận, nhường nhịn và thương yêu nhau, trong đó người phụ nữ thường đóng vai trò điều tiết. Khi khảo sát ca dao, chúng tôi cũng thu được kết quả tương tự.

Về lượng, số câu ca dao thể hiện sự gắn bó vợ chồng là 258, nhiều gấp 2,4 lần số câu thể hiện sự không gắn bó (107 câu), và bằng 37,68% so với tổng số câu ca dao về quan hệ vợ chồng. Qua ca dao, các tình huống thể hiện sự gắn bó vợ chồng chiếm ưu thế, hay nói cách khác, sự gắn bó là một đặc trưng trong quan hệ vợ chồng người Việt.  

Ca dao người Việt phản ánh sự gắn bó như sau:

Về phía người vợ: Không nghe lời tán tỉnh của người khác, Nguyện ở với chồng đến già, Đi theo chồng khắp nơi, Chăm nom chồng, Thương chồng, Nhịn lúc chồng nóng giận, Nhớ chồng, Lao động thay chồng, Chờ chồng, Chung thuỷ, Vượt mọi khó khăn, gian khổ, Gánh vác việc nhà, Làm chỗ dựa cho chồng, Vui buồn cùng chồng, Giữ nền nếp, Cam chịu, Nghe lời chồng, Thờ cha kính mẹ chồng, Trả công nợ, Khuyên chồng, Giữ duyên cho chồng, Chịu đựng, Biết tính chồng, Nhường vật chất cho chồng, Gắng công vì chồng, Chịu lầm than.

Một số câu tiêu biểu là:

1. Chàng ơi, chớ bực sầu tư

Khi xưa có mẹ, bây chừ có em.

2. Có chồng thì phải theo chồng

Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo

Có chồng thì phải theo chồng

Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.

3. Chim xa bầy thương cây nhớ cội

Vợ xa chồng đạo nghĩa nào sai

Vàng ròng cả lửa chẳng phai

Ở cho chung thuỷ có ngày gặp nhau.

4. Đi đò tát nước cho chuyên

Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.

5. Em là con gái có chồng

Mồ cha những đứa đem lòng nọ kia.

Ca dao cho ta hình tượng về một người vợ lo toan, đảm đang công việc, sẵn sàng hy sinh cho chồng, làm đẹp lòng chồng. Ở một chừng mực nào đó, phẩm chất của người vợ do bị ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo với "tứ đức, tam tòng" mà lại trở nên sáng lạn trong một số câu ca dao. Điều đó cũng dễ hiểu, vì người phụ nữ Việt đã biết tiếp thu những yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo, xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng theo một số khuôn mẫu mang tính lý tưởng của Nho giáo, nhưng có biến cải đi ít nhiều cho đơn giản và gần gũi đời thường hơn.

Về phía người chồng: Không tham giầu mà chuộng tính nết vợ, Lao động nuôi con, Đón đưa vợ, Nhớ vợ, Bỏ qua khuyết tật của vợ, Không vong vợ, Thương yêu mẹ vợ, Cùng hưởng vinh hoa, Chịu khổ, không chịu chia lìa, Chăm sóc vợ.

Một số câu tiêu biểu là:

1. Đôi bên bác mẹ tư tề

Anh đi làm rể em về làm dâu

Chẳng tham nhà gỗ xoan đâu

Tham vì một nỗi em mau miệng cười

Trăm quan mua một miệng cười

Trăm quan không tiếc, tiếc người hồng nhan.

2. Làm trai giữ trọn ba giềng

Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong.

3. Mẹ nàng khác thể mẹ ta

Phận dù đói rách, thiệt thà anh thương.

4. Ngọn lau lên khỏi bờ

Ngọn lúa trổ đòng đòng

Em đừng than đừng thở, để anh phải tủi lòng khóc theo

Hai tay anh bụm bọt phá bèo

Xưa kia khắp chốn không ai nghèo như anh

Ban ngày anh đốn củi rừng xanh

Tối về chỉ một tấm tranh che đầu

Mưa sa nhỏ giọt như dầu

Khổ thời anh chịu khổ, chứ lìa nhau anh không lìa.

5. Trời hè lắm trận mưa rào

Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa

Khuyên em chớ ngại nắng mưa

Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.

Hình tượng người chồng thật bình dị, không giầu sang, oai phong mà gần gũi, đồng cảnh với người vợ. Điều đáng quý của người chồng mà ca dao phản ánh là siêng năng, cần mẫn, biết yêu thương vợ con, cảm thông cho hoàn cảnh của nhau, tôn trọng những thành quả do hai người vun đắp nên.

Cả hai vợ chồng: Cùng lao động và chịu cảnh nghèo,  Không thay lòng đổi dạ, Theo nhau không kể giầu nghèo, Ngàn năm không quên, Thương nhau, Hài lòng trong cuộc sống vợ chồng, Vượt qua sự phân biệt tôn giáo, Hoà thuận, Cùng chung vinh, nhục, thảm nghèo, Một vợ một chồng, Không rời nhau, Sống với nhau suốt đời, Không thể dứt nhau, Chờ đợi nhau, Thuỷ chung.

Một điều dễ nhận thấy là ca dao về gia đình có rất nhiều câu rất hay, nói về cảnh sinh hoạt vợ chồng, như:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Một bức tranh thuỷ mạc về vợ chồng người nông dân tuy lao động cực nhọc nhưng quấn quýt bên nhau trong khung cảnh yên bình. Hình ảnh con trâu tham gia vào công việc nhà nông của họ làm cho bức tranh quê càng thêm sinh động. Cùng với chồng  và vợ, con trâu đã khắc hoạ đậm nét hình ảnh loại gia đình Việt tiêu biểu – gia đình hạt nhân, với hai lao động chính. Người ta cảm thấy một sự yên phận, không màng công danh, phú quý, vui với cái nghèo, miễn là khuya sớm vợ chồng thuận hoà bên nhau. Điều ấy không phải là yếm thế, tiêu cực. Trong cuộc sống bon chen, lọc lừa và nhiều bất trắc, thì ước mơ bình dị vợ chồng gắn bó, hoà thuận với nhau lại là tiếng nói tích cực, đầy nhân bản.

Một số câu  tiêu biểu là:

Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sương sớm vợ nay sương chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sương sớm, sương chiều, hỡi anh!

Đêm hè gió mát trăng thanh

Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng

Lạt chẳng mỏng, sao thừng được tốt?

Duyên đôi ta đã trót cùng nhau

Trăm năm thề những bạc đầu

Chớ tham phú quí, đi cầu trăng hoa.

Đạo vợ chồng hôm ấp mai ôm

Phải đâu cua cá với tôm

Khi đòi mớ nọ khi chồm mớ kia.

Bên lương bên giáo, bên đạo cũng như bên ta

Về đây ta kết nghĩa giao hoà

Phải duyên phải kiếp, áo Chúa Bà ta mặc chung.

Công danh theo đuổi mà chi

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông

Sớm khuya có vợ có chồng

Cầy sâu bừa kỹ mà mong được mùa.

6. Đói no một vợ một chồng

Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.

Từ ba góc nhìn trên đây, chúng tôi nhận thấy các tác giả dân gian rất nhất quán khi phản ánh sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng của người Việt xưa: dù nhìn từ phía vợ hay phía chồng, hoặc từ phía cả hai vợ chồng, thì nét đặc trưng cơ bản vẫn là sự gắn bó bằng tình cảm nồng thắm. Người Việt xây dựng quan hệ vợ chồng trên cơ sở yêu thương nhau ở tính nết, và tình yêu ấy được thử thách qua việc họ cùng nhau chịu cảnh nghèo, cùng nhau lao động, tôn trọng cha mẹ của nhau, sống chung thuỷ với nhau.

Để hiểu sâu hơn sự gắn bó trong quan hệ vợ chồng người Việt, cần chú ý đến một số đặc điểm là:theo nhau là biểu hiện của sự gắn bó, càng xa cách càng gắn bó, gắn bó trong lao động.

1.1.1. Sự chuyển đổi ý nghĩa từ khái niệm ''tòng phu” sang khái niệm “theo nhau”

Một số nhà nghiên cứu đi trước nhận định rằng, do ảnh hưởng của Nho giáo, mà người phụ nữ Việt Nam phải tòng phu (theo chồng), và chính vì phải theo chồngnhư vậy nên người vợ luôn luôn phải chịu mọi áp bức, đắng cay, thiệt thòi… Các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức tại gia tòng phụ như sau:

"- Đây là một quy luật bắt buộc người đàn bà. Chữ “tòng” đây không chỉ có nghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của người chồng nữa. Ý thức này ăn sâu vào dân gian đến nỗi trong ca dao đã có những câu như:

Con vua ưng thằng đốt than

Nó lên trên ngàn cũng phải đi theo…”

“… Bởi vậy, người đàn bà sống trong chế độ Tam tòng thường có tư tưởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thương để nhờ vào sự che chở của người chồng.” [72:189].

“Xem thế, người đàn bà đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng.” [72:194].

“Người đàn bà Việt Nam thương chồng và theo chồng, trên căn bản, không bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất ở tình thương, ở lòng mong mỏi xây dựng gia đình.” [72:198].

“Theo chồng với ý nghĩa của họ không phải như chế độ tòng phu của Khổng Mạnh, mà chính là để xây dựng tình thương, xây dựng cuộc sống theo khái niệm xã hội tư hữu và thuỷ chung. Cho nên, trong ý thức theo chồng của họ, chúng ta lại thấy phảng phất sự cân nhắc về cách biệt gia đình cha mẹ.

Khi trong tâm tư con người đã có sự so sánh giữa bổn phận theo chồng và bổn phận nuôi cha mẹ, tất nhiên đạo tòng phu không còn là một quy luật tuyệt đối trong chế độ Khổng Mạnh nữa.” [72:198].

“Trong ca dao Việt Nam chúng ta thấy trước mắt người đàn bà, người đàn ông không phải là những thần tượng để tôn thờ như giáo lý Khổng Mạnh đã lừa phỉnh họ. Vì vậy, tuy mến người đàn ông, nhưng họ vẫn phủ nhận ý thức tôn thờ ấy. Họ tìm cách mỉa mai, châm biếm, đem thực tế ra chứng minh để tỏ rằng địa vị người đàn ông không được họ công nhận và đáng tôn thờ.” [72:198-199].

“Cho nên, nếu người đàn ông đem giá trị người đàn bà hạ nhục để khống trị, thì chính người đàn bà cũng đem giá trị người đàn ông hạ nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt Nam…” [72:203]. 

Các tác giả nói trên đã mâu thuẫn với chính mình khi phân tích về người phụ nữ trong xã hội phụ quyền: trong khi khẳng định rằng ý thức tại gia tòng phụ đã ăn sâu vào dân gian, làm cho người vợ chỉ biết nhẫn nhục, chiều chuộng chồng, thì lại cũng khẳng định rằng người phụ nữ theo chồng là do tự nguyện, người đàn bà đã phủ nhận ý thức tôn thờ người đàn ông, đem giá trị người đàn ông ra để hạ nhục. Chúng tôi cho rằng, trong khi phê phán những thói hư tật xấu của người đàn ông cũng như người đàn bà, các tác giả dân gian không nhằm hạ nhục cả một giới, mà chỉ nhằm chống lại những biểu hiện tiêu cực cụ thể trong xã hội mà thôi. Mặt khác, không nên ngộ nhận rằng Nho giáo đã lừa phỉnh người đàn bà khi khuyên họ tôn thờ người đàn ông. Trong quan hệ vợ chồng, Nho giáo chủ trương người vợ phải tôn kính người chồng. Trong thực tế, nếu người chồng đáng tôn kính thì việc tôn kính chồng sẽ càng làm cho quan hệ vợ chồng thêm gắn bó, có gì là trái lẽ thường đâu!

Trở lại việc theo nhau của vợ chồng người Việt, chúng tôi thống kê được như sau: Có 44 câu ca dao sử dụng từ theo, nhưng không phải chỉ với nghĩa vợ theo chồng, mà còn với nghĩa chồng theo vợ, và vợ chồng theo nhau. Nội dung của việc theo chồngcũng không đơn thuần thể hiện tính phục tòng, lệ thuộc của người vợ đối với người chồng, mà chủ yếu là biểu hiện tình cảm thắm thiết giữa hai vợ chồng. Có thể thấy rõ điều này qua các câu ca dao trích dẫn như sau:

Cả hai theo nhau: “Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Theo nhau cho trọn kiếp”, “Quyết theo nhau cho trọn đạo”, “Theo nhau cho trọn lời vàng đá”,  "Theo nhau cho trọn, tử sinh cũng đành”,  “Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.”.

 - Vợ cheo chồng: “Làm thân con gái phải đi theo chồng”, “Lấy chồng, theo thói nhà chồng”, “Võng anh đi trước, võng nàng theo sau”, “Theo sau, em có võng vàng đưa chân”, “Chàng về thiếp cũng về theo/Mấy sông mấy cụm, cũng trèo cũng qua”, “Chàng lên non, thiếp cũng lên non/Chàng lên trời, vượt biển, thiếp cũng bồng con theo chàng.”, “Chàng về cho thiếp theo cùng/Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”, “Có chồng thì phải theo chồng/Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.”, “Có chồng thì phải theo chồng/ Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui.”, “Tôi ngỡ anh khá tôi theo anh về”, “Duyên ưa phận đẹp thì nường cũng theo.”, “Khó mà xứ ruộng em theo.”, “Phải duyên em nhất định theo”, “Phải duyên phải kiếp thì theo”, “Thương chồng phải theo”, “Thiếp thương chồng, thiếp phải chạy theo”. (Tuy vậy, cũng có lúc người phụ nữ không theo chồng, ví như: “Ăn cam ngồi gốc cây cam/Lấy anh thì lấy về Nam không về.”, “Ăn chanh ngồi gốc cây chanh/Lấy anh thì lấy về Thanh không về.”)

Chồng theo vợ: “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo.”, “Phải duyên phải kiếp thì theo/ Khuyên em đừng nghĩ đói nghèo làm chi”, “Giận chồng xách gói ra đi/ Chồng theo năn nỉ tù ti trở về.”, “Mình về tôi cũng đi theo/ Sum vầy phu phụ, hiểm nghèo có nhau”.

Như vậy, qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng, mà còn có cả đàn ông theo vợ, và quan trọng hơn là họ theo nhau. Tất nhiên, sống trong một chế độ xã hội, con người không thể không chịu ảnh hưởng của chế độ xã hội ấy, cho nên, người phụ nữ sống trong chế độ phong kiến, tất phải chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến, kể cả trong quan hệ vợ chồng. Chính vì vậy mà qua ca dao, chúng ta thấy người phụ nữ hay nói đến chữ theo chồng, không những thế mà còn theo cả thói nhà chồng, và họ coi đó là sự tất yếu, nhiều khi không quan tâm đến cái nghĩa theolà thế nào. Liên hệ đến yêu cầu của Khổng Khâu cốt làm cho dân theo giáo lý của mình chứ không cốt làm cho dân hiểu nó, thì thấy rằng Nho giáo đã gặt hái được những thành công nhất định trong việc truyền bá quan niệm tòng phu vào xã hội Việt Nam, làm cho khái niệm này trở thành câu nói cửa miệng của dân gian. Mặt khác, vợ theo chồng cũng là lẽ thường tình, nếu như việc theo đó là để xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tuy vậy, khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ tòng phu, người Việt cũng khá mơ hồ trong việc hiểu nội dung của nó, họ không nói rõ tòng phulà thế nào, đã vậy họ còn Việt hoá cả cái vỏ ngôn ngữ ấy thành theo chồng, mở rộng ra thành vợ chồng theo nhau. Thế rồi, khái niệm theo chồng đã chứa đựng những nội dung rất cụ thể và dung dị như chính cuộc sống của người dân quê: theo là vì hợp duyên, vì thương chồng, và quan trọng hơn là để chung nhau gánh vác công việc, chung nhau thụ hưởng niềm vinh quang hay chia sẻ sự thống khổ, cũng có khi để dựa vào người chồng. Nhưng, nổi bật là người phụ nữ theo chồng với chí hướng cùng chồng xây đắp cuộc sống chung hạnh phúc. Chính vì vậy mà người vợ xác định rõ theo chồng thì dù đi đến nơi khó khăn hóc hiểm như hang rắn, hang rồng, hoặc nơi xa xôi sóng gió lên trời, vượt biển, dù đắng cay hay mặn nồng, thì họ cũng theo, miễn là phải duyên, phải kiếp. Cũng có khi, lỡ chọn phải chồng không phù hợp, người phụ nữ cũng dám chủ động làm lại cuộc đời “Tôi trốn tôi tránh tôi về nhà tôi.”. Độc đáo hơn nữa, theo chồng mà người phụ nữ không tự ti trong vị thế của một người phải phục tòng, mà đầy tự tin ở vai trò của mình, vai trò làm chỗ dựa cho chồng, bởi vậy, người vợ mới dám khuyên chồng: “Chàng ơi, chớ bực sầu tư/ Khi xưa có mẹ, bây chừ có em.”

Tóm lại, cách thức theo chồng của người phụ nữ Việt thời phong kiến đa dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩa tích cực, thể hiện sự chủ động của người phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắp hạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động ấy, người phụ nữ sẵn sàng gánh vác việc khó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làm cho vợ chồng được gắn bó. Từ khái niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển hoá thành khái niệm theo nhau, là biểu tượng cho sự gắn bó vợ chồng người Việt trong xã hội phong kiến. Cách thức chuyển hoá nội hàm khái niệm như vậy được diễn ra một cách lặng lẽ trong cuộc sống đời thường, nhưng lại phù hợp với quy luật của tiếp biến văn hoá nói chung của dân tộc ta, mà PGS Nguyễn Từ Chi đã khái quát như sau: “Trong không ít trường hợp, những yếu tố mà tổ tiên của người Việt hiện nay đã lần lượt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên niên kỷ Bắc thuộc, và cả về sau nữa, khi được tích hợp vào cuộc sống hàng ngày của người bản địa, chỉ còn giữ được của nơi xuất phát có cải vỏ hình thức nữa thôi (thường là tên gọi) trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến đổi hẳn”.[240].

1.1.2. Vợ chồng trong lao động

Có 35 câu ca dao trực tiếp mô tả khung cảnh lao động, trong đó cho thấy vợ chồng đồng tâm hiệp lực nhằm tạo dựng một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Chúng tôi xin thống kê các tình huống như sau:

Việc do người vợ làm: Cày, Đạp xe nước, Trồng hoa, Trồng khoai, Trồng cà, Gieo mạ, Gặt hái, Quảy cơm, Dệt, Quay tơ, Xay thóc giã gạo, Chẻ lạt, ủ phân, Nuôi lợn, Bắt cua, Chăm lo cha mẹ, Đứng mũi (thuyền), Làm thuê làm mướn,  Buôn bán.

Việc do người chồng làm: Làm ruộng, Cày, Gặt, Cuốc, Phát, Đốn củi, Xúc giậm, Làm thầy, Làm thợ, Chịu sào (thuyền), Gánh muối, Gánh chè, Chắp thừng, Đi lính, Vẽ, Viết, Đi học, Đọc sách.

Việc do cả hai cùng làm: Cày bừa, Làm mạ, Trồng khoai, Trồng cà, Gặt hái, Hái rau, Mót khoai, đỗ, Đốn củi, Buôn bè.

Thái độ trong lao động: Vui phận nghèo, Tự giác, Tin vào thành công, Kiên nhẫn, Không quản ngại, Lạc quan, Coi trọng công lao của nhau.

Có thể dẫn ra rất nhiều câu ca dao phản ánh khung cảnh gia đình êm ấm, chồng hoà vợ thuận trong lao động và tình yêu thương thắm thiết, kiểu như :

1. Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

2.  Sáng trăng trải chiếu hai hàng

Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.

3. Trời hè lắm trận mưa rào

Gặt sớm phơi sớm liệu sao cho vừa

Khuyên em chớ ngại nắng mưa

Của chồng công vợ, bao giờ quên nhau.

4. Đôi ta vợ cấy chồng cày

Chồng nay sương sớm vợ nay sương chiều

Ta nghèo vui phận ta nghèo

Quản chi sương sớm, sương chiều, hỡi anh!

5. Bao giờ lúa trỗ vàng vàng

Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm.

6. Cơm chiên ăn với cá ve

Thiếp đây chàng đấy, buôn bè ra khơi.

7. Kể chi trời rét đồng sâu

Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa

Bây giờ trưa đã hồ trưa

Chồng vác lấy bừa, vợ dắt con trâu

Một đoàn chồng trước vợ sau

Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng.

Nhìn chung, qua ca dao, chúng ta thấy về mặt lao động, vợ chồng có sự phân công hợp lý và khá bình đẳng, việc mà người chồng làm thì người vợ cũng làm, chỉ trừ việc đi học; thường thì công việc được mô tả theo cặp đôi tương xứng - chồng việc này thì vợ việc nọ - A việc a thì B việc b (Chồng cày-vợ cấy, Chồng sương sớm- vợ sương chiều, Anh đi gặt- nàng quảy cơm, Chồng vác bừa - vợ dắt trâu, Em chẻ lạt - Anh chắp thừng, Thiếp đây - chàng đấy, Em đững mũi - anh chịu sào, Chàng bòn - thiếp mót); về mặt thi pháp, có thể thấy đây là "mô típ sóng đôi" độc đáo của văn học dân gian người Việt. Mô típ này chỉ có thể xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ và bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Ngoài làm việc tại nhà, người phụ nữ cũng có dịp đi lao động ngoài xã hội giống như nam giới, như đi buôn, đi làm mướn, đi bè… chứ không phải chỉ quanh quẩn trong nhà. Nội dung nói trên xuất phát từ thực tế lao động ở nông thôn, trong đó việc canh tác là cơ bản, sự phân biệt về khả năng lao động trên lĩnh vực này chưa nhiều, đó là lao động khá đơn giản và nhiều khi cần sự hợp sức của cả hai vợ chồng. Có khác chăng là ở chỗ chồng có thể làm việc nặng hơn, vợ có thể được làm việc nhẹ, yêu cầu sự khéo léo hơn, chứ không khác ở sự phân công lao động trong một xã hội có nền kinh tế phát triển, trong đó ngành nghề được phân chia rạch ròi và đòi hỏi sự đào tạo nhất định về nghề nghiệp. Không những thế, trong xã hội mà ngành thưong mại chưa phát triển, người phụ nữ còn gần như độc chiếm nghề tiểu thương kiểu buôn đầu chợ bán cuối chợ, hoặc bán nông sản do gia đình làm ra tại các chợ quê, tuy vốn và lãi không nhiều nhặn gì, nhưng cũng đủ đem về gia đình một khoản tiền mặt dùng cho chi tiêu hàng ngày, một giá trị kinh tế quan trọng đối với gia đình nông dân. Chính điều kiện lao động nông nghiệp đơn giản, sự phân công lao động chưa rành mạch và khả năng làm kinh tế tiểu thương của người phụ nữ đã tạo điều kiện cho tính dân chủ, bình đẳng giữa hai vợ chồng được xác lập, cho nên công lao của người phụ nữ được đánh giá ngang bằng với công lao của người chồng “của chồng công vợ”. Tuy vậy, do ảnh hưởng của Nho giáo, người nông dân cũng hướng đến sự vinh thân qua con đường học hành, khoa cử. Chính vì vậy, trong các việc làm của người chồng, có việc đi học, với 28 câu ca dao phản ánh công việc này. Với những gia đình nhà nho, thì ảnh hưởng của giáo lý Khổng Mạnh tất yếu mạnh hơn các gia đình khác, và tư tưởng dương danh, hiển nhân cũng chi phối suy nghĩ của họ. Các câu ca dao nói về việc đi học, đi thi của người đàn ông phần lớn thông qua lời nói của người vợ, qua đó bộc lộ rõ rệt mục đích của việc học là đỗ đạt, làm quan, đem vinh hiển về cho gia đình, vợ con (như: "Bảng vàng choi chói bia đề tên anh", "Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau", "Chàng đi ngựa thắm, thiếp nay võng đào", "Anh cưỡi ngựa vua ban, em ngồi trên võng vàng", "Trước là vinh thiếp, sau mình vinh thân"). Có thể nói, tình trạng vợ chồng cùng nhau chăm bẵm vào con đường khoa cử nhằm vinh hiển, trong đó người chồng dấn bước vào khoa trường, còn người vợ thì tần tảo nuôi chồng ăn học, chính là biểu hiện rõ rệt nhất của sự ảnh hưởng của Nho giáo vào gia đình người Việt, mà cụ thể ở đây là loại gia đình nhà nho; sự ảnh hưởng ấy cũng thấm cả vào ca dao. Điều này có một lý do là một bộ phận của tục ngữ, ca dao do tầng lớp nho sĩ sáng tác. Câu ca dao "Sáng trăng trải chiếu hai hàng/Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ" vẽ nên bức tranh đặc trưng về sinh hoạt của gia đình nhà nho, trong đó nhiệm vụ của người đàn ông là đọc sách, học hành, người đàn bà làm lao động nhưng không phải là làm nghề nông đơn thuần mà là làm nghề phụ, đỡ cực nhọc hơn và có khả năng thu nhập cao hơn. Xác định rõ mục đích, phân công công việc rõ ràng (anh đi học, em lo việc nhà), hai vợ chồng đều tự giác chăm lo công việc của mình, nhưng người vợ bao giờ cũng vừa làm vừa hướng tâm tưởng của mình về phía chồng, chăm lo chồng chu đáo, và do vậy, quan hệ giữa hai vợ chồng càng gắn bó. Mặt khác, qua ca dao, cũng cần ghi nhận ảnh hưởng tích cực của Nho giáo vào xã hội Việt Nam là góp phần tạo nên truyền thống hiếu học, một yếu tố hết sức cần thiết để đào tạo con người cho xã hội hiện đại. Và thật thú vị, cái điểm “rất Nho” này lại tạo điều kiện cho, hoặc làm bộc lộ ra khả năng “giải Nho” trong quan hệ vợ chồng: anh chồng, từ vị trí người chủ gia đình mà người vợ luôn luôn phải phục tòng theo quan điểm Nho giáo, khi chăm bẵm theo con đường khoa cử, trở thành anh “học trò dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, trông chờ người vợ lo toan cho cuộc sống, đã giảm dần vai trò gia chủ, và nhờ thế, vai trò của người vợ ngày một trở nên quan trọng hơn, tạo ra thế bình đẳng giữa hai vợ chồng. Có nhiều câu ca dao phản ánh tình trạng này, ví như:

Ai đi đợi với tôi cùng

Tôi còn sắp sửa cho chồng đi thi

Chồng tôi quyết đỗ khoa này

Chữ tốt như rắn, văn hay như rồng

Bõ khi xắn váy quai cồng

Cơm niêu nước lọ nuôi chồng đi thi.

Một khi người phụ nữ đã nuôi được chồng, thì cũng có nghĩa là vai trò của họ không bị lệ thuộc người chồng theo lễ giáo phong kiến nữa, mà như PGS Nguyễn Từ Chi đã viết: “Một khi đã là vợ, là mẹ, là bà chủ một gia đình nhỏ, với chìa khoá hòm trong tay, người nữ nông dân Việt, đặc biệt là ở Bắc Bộ, nơi mà luồng buôn bán nhỏ trong nông thôn sinh động hơn nhiều, so với ở Trung Bộ và Nam Bộ trước kia, tất có tiếng nói quan trọng, nhiều khi quyết định, trong nền kinh tế gia đình, xứng với danh hiệu “nội tướng” mà các ông chồng sính chữ Nho thường gán cho họ’’.[192]

Điểm hạn chế là trong cái nhìn của các tác giả dân gian, phụ nữ không thuộc loại cần được đi học, đó là sự bất công với phụ nữ mà ngày nay tuy chúng ta đã khắc phục, nhưng không phải không còn rơi rớt ở nông thôn, khiến cho nhiều gia đình chỉ cho con trai đi học và bắt con gái ở nhà giúp việc gia đình.

Ngoại trừ hạn chế về tư tưởng tìm cách được ăn trên ngồi trốc qua con đường khoa cử của giai cấp thống trị, nhìn chung lao động của gia đình người Việt có mục đích đơn giản và chân chính, đó là tạo dựng một cuộc sống no đủ, êm ấm. Cũng có lúc người nông dân phê phán lối học hành thoát nông, khẳng định con đường lao động ở nông thôn là đáng coi trọng:

Công danh theo đuổi mà chi

Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông

Sớm khuya có vợ có chồng

Cầy sâu bừa kỹ mà mong được mùa.

Gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên và lao động, quan hệ vợ chồng người Việt trở nên thơ mộng, đầy tính lãng mạn, do đó đã để lại cho kho tàng ca dao những bức tranh vô cùng đẹp đẽ. Cái cảnh “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”, hay “Bao giờ lúa trỗ vàng vàng/Cho anh đi gặt cho nàng quảy cơm” vừa là bức tranh hiện thực về cuộc sống lao động nặng nhọc của người nông dân, vừa là bài ca lãng mạn bay bổng thể hiện sự lạc quan trước cuộc sống, là bản tình ca dung dị về hạnh phúc vợ chồng người Việt.

1.1.3. Vợ chồng trong sự xa cách

Có 118 câu ca dao nói về sự xa cách vợ chồng, thì 33 câu thể hiện sự gắn bó, chỉ có 4 câu thể hiện sự lỏng lẻo trong quan hệ vợ chồng.

Nếu quả như nhận định của một số nhà nghiên cứu trước đây, với ý chung là hôn nhân trong xã hội phong kiến, do sự áp đặt của lễ giáo phong kiến, của chế độ phụ quyền, nên người phụ nữ không có hạnh phúc, thì việc xa cách chồng chính là điều kiện thuận lợi để giải phóng người vợ, và người vợ phải thể hiện sự mừng vui khi xa cách chồng. Thế nhưng, ngược lại, qua ca dao, chúng ta thấy càng xa cách chồng, người vợ càng thể hiện sự gắn bó với chồng, vợ chồng càng xa cách càng gắn bó với nhau. Trong 118 câu ca dao thể hiện sự xa cách vợ chồng, hầu hết là nói lên sự nhớ thương day dứt của người vợ hoặc người chồng. Nguyên nhân của sự xa cách này là do đi lính hoặc do chiến tranh (24 trường hợp), chồng đi học (9 trường hợp), chồng đi làm ăn (6 trường hợp), vì các công việc khác (55 trường hợp). Nhiều khi người chồng đi mà không nói lý do (9 trường hợp), khiến người vợ khắc khoải, luôn tự hỏi “Anh đi đâu…”, “Đi mô…”, "Đi mô mà chẳng thấy về”, “Đi đâu để nhện giăng mùng/Năm canh thiếp chịu lạnh lùng cả năm.”, “Anh đi đâu ba bốn năm tròn/Để em giã gạo chày con một mình.” Và cũng nhiều khi sự xa cách chồng đem lại nỗi thất vọng chua cay cho người vợ, làm cho người vợ phải “Khóc nỉ non”, không “biết lấy ai than cùng”, khắc khoải “Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu”, đến nỗi phải tự dằn vặt “Chẳng qua thân mẹ như đời thờn bơn”. Vì vậy, có khi người phụ nữ thể hiện thái độ gay gắt, không thiết tiền bạc, chỉ cần gần nhau: “Chàng Nam thiếp Bắc làm giàu ai ăn.”

Trong các tình huống khiến cho vợ chồng xa cách, đáng chú ý là các tình huống thuộc về chiến tranh: người chồng phải đi lính. Có rất nhiều cách thức trong ca dao diễn tả thái độ của người vợ trước cảnh chồng đi lính: ngăn không cho đi (“Anh ơi anh ở lại nhà”, “Anh đòi đi lính Tây bang/Em e anh bỏ mạng bãi hoang đất người.”), đành phải cho đi (“Phải lính thì đi”), hứa hẹn làm tốt việc nhà (“Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”), lo lắng, thương xót người chồng ngoài trận mạc (“Hòn tên mũi đạn, dạ em càng không yên”, “Lo chàng lao khổ, chớ sá gì mẹ con tôi.”), oán trách sự bất công của xã hội (“lấy chồng lính thiệt thua trăm đường”), lên án chiến tranh (“Trời ơi sinh giặc làm chi/Bỏ nhà bỏ cửa mà đi chiến trường.”), lo lắng cho cuộc sống gia đình (“Lấy chi nuôi thầy với mẹ quanh năm/Đêm năm canh nằm nghĩ lại, ruột tằm héo hon.”), trách chồng (“Tây bang anh đi lính/Sao anh không tính việc nhà.”, “Anh đi lính mộ, được gì đâu na?”), sẵn sàng gánh vác việc nước cho chồng (“Thiếp đi lính thế cho chàng ít năm.”).

Dù người chồng đi đâu, vì lý do gì, thì người phụ nữ vẫn luôn luôn chờ đợi. Có tới 62 câu với 3 loại từ diễn tả trạng thái đợi chờ của người phụ nữ trong 102 trường hợp xa cách chồng thể hiện qua ca dao, gồm: đợi(16 câu, như “Sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh.”, “Thắp đèn em đợi, dựa kề năm canh.”), chờ(30 câu, như “Con thơ vợ dại trông chờ từ đây.”), trông(16 câu, như: “Vợ trông chồng lên núi đứng vọng phu”.)

Phản ánh cách thức ứng xử trong điều kiện xa cách vợ chồng, ca dao ít đứng từ góc độ người chồng (chỉ có 19 trường hợp), nhưng cũng cho thấy trách nhiệm và lòng khao khát sum họp gia đình của người đàn ông. Tình cảm của người chồng được phản ánh trong khung cảnh xa vợ là thương vợ, cứng rắn vượt qua hoàn cảnh, tin tưởng giao việc nhà cho vợ, nhớ nhung, xót xa, an ủi vợ, than thân trách phận, đau đớn, lo lắng trước hoàn cảnh của vợ, chờ đợi, tin tưởng sẽ đạt mục đích; cũng có trường hợp, dù là hiếm hoi, người chồng cảm thấy được giải phóng, tự do (1 trường hợp) hoặc cũng có khi bội bạc, lấy vợ hai (1 trường hợp). Tuy vậy, thái độ chung nổi bật của người chồng là trách nhiệm và tình cảm thắm thiết với vợ con, mà câu ca dao tiêu biểu là “Dù lên nguồn xuống bể anh cũng trở về với em.”

Qua sự thể hiện tình cảm của người vợ trước cảnh xa cách chồng, chúng ta thấy rõ người phụ nữ Việt luôn luôn lo lắng cho chồng, sẵn sàng gánh vác công việc cho chồng, kể cả việc đi lính, sẵn sàng chăm lo việc nhà, mặc dù chất chồng lên bản thân mình là những khó khăn, sự hẫng hụt khi trong nhà mất đi người đàn ông. Điều này là tự giác, là biểu hiện của sự gắn bó vợ chồng. Trong khi đó, vì công việc hoặc vì hoàn cảnh bắt buộc, người đàn ông phải từ biệt gia đình sống cuộc sống tha hương, nhưng họ vẫn dành cho gia đình tình cảm gắn bó, thương yêu. Cho nên, phản ánh tình cảnh xa cách của vợ chồng, ca dao đã chứng minh một cách đầy thuyết phục sự gắn bó của vợ chồng, một sự gắn bó từ cả hai phía vợ và chồng, dựa trên tình thương yêu và trách nhiệm đối với nhau.

1.2. Đạo nghĩa vợ chồng theo quan niệm dân gian

Khảo cứu ca dao, chúng tôi nhận thấy khái niệm đạo nghĩa thường được các tác giả dân gian dùng để nói về quan hệ vợ chồng. Trong học thuyết Nho giáo, thì chữ đạo cũng hay được sử dụng để nói về quan hệ gia đình, đó làđạo tam tòng. Khảo cứu kỹ những câu ca dao có dùng từ đạo nghĩa (hoặc đạo, hoặc nghĩa), gồm 39 câu, chúng tôi thấy rằng trong khi sử dụng vỏ ngôn ngữ đạo nghĩa của Nho giáo, các tác giả dân gian đã chuyển tải những nội dung gần gũi với nhận thức, tình cảm và lối sống của dân tộc.

Theo các tác giả dân gian, đạo nghĩa vợ chồng rất nặng, rất sâu, rất khó, với nội dung là: Hôm ấp mai ôm, Ăn mày cũng theo nhau, Ngàn dặm khôn quên, Giận rồi lại thương, Thương, Chịu khó chịu khổ, Xa nhau vẫn nhớ, Đá vàng trăm năm, Nhớ hoài không quên, Chăm nom chồng, Hoà hợp, thuận hoà, Không ngại xa gần, Không vong vợ, Bền chặt, Không rời nhau, Không cần biết đói no, Đợi chờ chồng, Chung thuỷ, Không tham sang giàu, Già đời, Sinh tử có nhau, Cậy nhờ nhau.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Đạo cương thường khó lắm bạn ơi

Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay

Đạo cương thường khá dễ đổi thay

Dầu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau.

2. Đốn cây ai nỡ dứt chồi

Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.

3. Chữ rằng: quân tử tạo đoan

Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm.

4. Lấy nhau cho trọn đạo Trời

Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau ra.

5. Xét ra trong đạo vợ chồng

Cùng nhau tương cậy đề phòng nắng mưa.

Các từ thể hiện đạo nghĩa ở đây thường được dùng là Đạo vợ chồng, Đạo vợ nghĩa chồng, Tình chồng nghĩa vợ.

Qua ca dao nói về đạo nghĩa vợ chồng, có thể thấy các tác giả dân gian cũng nêu lên một số quy luật bao quát thể hiện nguyên tắc sống của vợ chồng, như chung thuỷ trọn đời (thường biểu hiện qua từ trăm năm, như “Vợ chồng là nghĩa đá vàng trăm năm”, “Trăm năm gối phượng má đào bên em”, “Đạo vợ chồng trăm năm không phải một ngày”). Quy luật này là phổ biến, từ trong đời thường mà ra, chứ không phải là theo triết thuyết Khổng Mạnh, bởi vì từ khi chưa có Nho giáo, thì con người đã có khái niệm vợ chồng, và thực tế cuộc sống lao động cũng như tình cảm đã khiến cho sự chung thuỷ trọn đời là yêu cầu tất yếu của quan hệ vợ chồng.

Nội dung chính trong ca dao về đạo nghĩa vợ chồng là những cách thức ứng xử thắm thiết tình cảm giữa hai vợ chồng trong hoàn cảnh sống gắn với thiên nhiên, lao động. Đạo nghĩa vợ chồng giản dị và thuần phác, có khi thể hiện ở nắm lá xông:

Tai em nghe anh đau đầu chưa khá

Em băng đồng chỉ sá, đi bẻ nắm lá nọ về xông

Ở  làm gì đây cho trọn nghĩa vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che.

Quan niệm về nghĩa như trên cho thấy lối sống chất phác, tình cảm chân thật và thực tế của người nông dân thuộc xã hội nông nghiệp, một xã hội mà trong đó, con người sống gắn bó và hoà đồng với thiên nhiên.

Có một trường hợp độc đáo, là trong khi sử dụng khái niệm Đạocủa Nho giáo, các tác giả dân gian lại chuyển tải một nội dung trái ngược với Nho giáo. Qua ca dao, người nông dân Việt khẳng định: "Đạo cương thường khá dễ đổi thay/Dẫu làm nên võng giá, rủi ăn mày cũng theo nhau”. Đây là một quan niệm rất nhân ái của người Việt, đối lập với quan niệm Nho giáo đòi hỏi người chồng phải dương danh, hiển nhân. Thảm trạng của người đàn ông không làm cho người đàn bà khinh ghét, ruồng rẫy mà càng làm sâu sắc thêm tình chồng nghĩa vợ, đó là nét tâm lý độc đáo của người nông dân Việt.

Như vậy, khái niệm đạo nghĩa được dùng trong ca dao có nội dung khá rộng, bao hàm cả ý nghĩa vật chất và ý nghĩa tinh thần. Về ý nghĩa vật chất, các tác giả dân gian quan niệm rằng muốn làm tròn đạo nghĩa, vợ chồng cần thể hiện sự âu yếm nhau, chịu đựng thiếu thốn, không phụ thuộc vào của cải. Về ý nghĩa tinh thần, đạo nghĩa bao hàm cả tình cảm và ý chí, vợ chồng phải thương yêu, tương trợ nhau, hoà thuận, chung thuỷ, không bị chi phối bởi không gian và thời gian. Quan niệm như thế hoàn toàn phù hợp với cuộc sống bình dị, không phải là những triết lý cao siêu.

1.3. Quan niệm dân gian về ông Tơ bà Nguyệt

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, trong xã hội phong kiến, do không tìm được hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân, mà người ta hay trông chờ hoặc đổ lỗi cho ông Tơ bà Nguyệt. Trong Kinh thi ViệtNam, Nguyễn Bách Khoa viết: "Cha mẹ đặt đâu, họ phải ngồi đấy. Bao nhiêu tư tưởng cá nhân của họ đều nép mình dưới cái uy lực tối thượng của gia đình. Họ chỉ còn biết nhắm mắt đưa chân trông cậy cả vào may rủi, vào ông Tơ bà Nguyệt"  [52:99].

Thực ra trong ca dao nói về gia đình, chỉ có 5 câu trực tiếp nhắc đến ông Tơ bà Nguyệt, chỉ có ca dao về chủ đề giao duyên nam nữ mới nhắc nhiều đến hai từ này. Vì sự giao duyên có liên quan trực tiếp đến hôn nhân, cho nên chúng tôi cũng mở rộng tư liệu ra loại chủ đề giao duyên để khảo cứu. Theo phân loại của chúng tôi, có 5.862 câu ca dao thuộc chủ đề giao duyên nam nữ, cùng với 1.179 câu ca dao thuộc chủ đề gia đình, trong đó từ ông Tơ, bà Nguyệt xuất hiện 164 lần trong 88 câu ca dao (dưới nhiều tên gọi khác nhau: ông Tơ bà Nguyệt, ông Tơ, bà Nguyệt, Nguyệt lão, bà Nguyệt lão, ông Nguyệt lão). Các đôi nam nữ nói đến ông Tơ bà Nguyệt trong các trường hợp sau đây:

+ Phản ánh tình trạng chưa bén duyên nhau (30 câu), thí dụ: “Ông Tơ bà Nguyệt chưa xe”, “Đôi ta như vợ với chồng/Chỉ hiềm một nỗi ông Tơ Hồng chưa xe.”, “Tuổi anh đang độ thơ đào/Ông tơ chưa định nơi nào xe duyên.” Ông Tơ bà Nguyệt ở đây chỉ như một cái cớ mà các đôi trai gái mượn để nói lên tâm trạng “lửng lơ” chưa định nơi chốn của mình.

+ Trách không xe duyên (13 câu), thí dụ: “Bắt ông Tơ mà đánh ba hèo/Duyên người xe cả, phận em đói nghèo không xe.”, “Quyết lên trời kiện đến ông Tơ”,” Ông vụng xe, xe phải vợ già/Tôi thì đốt cửa đốt nhà ông lên!”.  Thái độ của người nói ở đây khá trịch thượng, coi thường ông Tơ, bà Nguyệt, thường dùng từ bắt.” (Ví dụ : “Bắt ông Tơ mà cho ba đấm/Bắt bà Nguyệt, đánh bốn mươi chín cái hèo/Duyên người ta xe buổi sớm duyên em buổi chiều mới xe.”). Tuy nói là trách ông Tơ, thực ra con người trách cho sự chậm duyên, vô duyên của mình chứ không nhằm đổ lỗi cho đấng siêu nhiên.

+ Thể hiện vai trò chủ động của con người trong tình duyên, không phụ thuộc ông Tơ bà Nguyệt (17 câu), ví dụ: “Vừa đôi ta định, ông Tơ sá gì!”, “Kết phức đi đây vợ đó chồng/Dù ông trời chưa định, dù ông Tơ Hồng chưa xe.”, ”Sáng trăng suông sáng cả bờ sông/Ta được cô ấy ta bồng ta chơi/Ta bồng ta tếch lên trời/Hỏi ông Nguyệt Lão tốt đôi chăng là?”, “Phụ anh, tội lắm bớ nàng!/Ông Tơ xe sợi chỉ vàng còn săn”, "Phải duyên thì lấy, tơ hồng nào se". Qua các câu ca dao thuộc loại này, chúng ta thấy dù nhân duyên đã thành hay bại, thì ông Tơ, bà Nguyệt cũng không có vai trò quyết định, mà vai trò ấy là ở con người. Khi đã yêu, người ta cứ việc gắn bó với nhau, có hỏi đến ông Tơ cũng chỉ là để cho vui, khi sự việc đã an bài. Còn khi trắc trở, người ta đem ông Tơ bà Nguyệt ra hỗ trợ cho mình nhằm níu kéo người tình.

+ Cầu xin cho được xe duyên (5 câu), thí dụ: “Vái ông Tơ một đĩa bánh bò bông/Cùng bà Nguyệt lão gắng công xe giùm.”, “Vái ông Tơ đôi ba chầu hát/Vái bà Nguyệt năm bảy đêm kinh/Xui cho đôi lứa tôi thuận một tâm tình/Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ưng.” Trong trường hợp này, con người tỏ lòng thành kính trước vai trò xe duyên của ông Tơ bà Nguyệt, nhưng cũng có khi chỉ là cách nói mà thôi. Số câu ca dao thuộc loại này chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ bằng 7,46% số câu ca dao có nói đến ông Tơ bà Nguyệt, chứng tỏ trong tâm thức dân gian, sự tin tưởng vào vai trò của ông Tơ bà Nguyệt trong xe duyên chỉ rất mờ nhạt.

Với các nội dung được phân loại cùng những dẫn chứng như trên, có thể thấy rằng trong ca dao, các tác giả dân gian chỉ mượn ông Tơ bà Nguyệt để nói về tâm trạng của con người hoặc để làm cớ nói về tình cảm của con người, chứ chủ yếu không phải coi ông Tơ bà Nguyệt như đấng thần linh quyết định hạnh phúc lứa đôi. Điều này cho thấy, về mặt phương pháp luận, khi nghiên cứu văn học dân gian, trong đó có ca dao,  cần chú ý đến cách sử dụng khái niệm của các tác giả dân gian, nhiều khi sử dụng cái vỏ ngôn ngữ này để chuyển tải nội dung khác.

1.4. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng

Phản ánh các hiện tượng tiêu cực trong quan hệ gia đình người Việt có 150 câu ca dao, trong đó thuộc về quan hệ cha mẹ con có 37 câu, vợ chồng có 88 câu, anh chị em có 2 câu, còn lại là trong quan hệ dâu rể, họ hàng.

Khảo cứu loại ca dao phản ánh các hiện tượng tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, chúng tôi rút ra bảng sau:

BIỂU HIệN

NGUYÊN NHÂN

TÁC NHÂN

PHẢN ỨNG

Tảo hôn

Tham giầu

Nữ

Phê phán

Phụ bạc

Vợ già đi

Nam

Trách

Cờ bạc

 

Nam

Xa lánh

Chồng vừa chết đã ngóng trai

 

 

Không nói rõ

Bóc lột

Nhà giầu

Nhà chồng

Trách

Nợ nần (2 đơn vị)

Cờ bạc

Nam

Không nói rõ

Rượu chè

 

Nam

Không nói rõ

Cờ Bạc (2)

 

Nữ

Không nói rõ

Cờ bạc (10)

 

Nam

Trách, khinh

Phụ bạc

 

Nữ

Không nói rõ

Phụ bạc

 

Cả nam, nữ

 

Đa thê (9)

 

Nam

Trách

Đa thê (3)

 

Nam

Phản đối

Đa thê (5)

 

Nữ

Chấp nhận

Bỏ chồng, ngóng trai

 

Nữ

Phê phán

Tảo hôn (2)

 

 

Không nói rõ

Bạc bẽo (7)

 

Nam

Trách

Bạc bẽo (2)

 

Nam

Không nói rõ

Bạc bẽo

 

Nam

Phản đối kịch liệt

Bạc bẽo

 

Nam

Cầu xin

Chồng không thương

 

Nam

Buồn

Đánh vợ (6)

 

Nam

Nhắc nhở

Đánh vợ

Vợ lẳng lơ

Nam

Không nói rõ

Dữ tính

 

Nam

Lo

Đàng điếm (10)

 

Nữ

Dè bỉu

Nghiện hút

 

Nam

Dè bỉu

Bỏ chồng

Công nợ

Nữ

 

Vợ hư

Cả nghe

Nam

Quy trách nhiệm

Vợ hư

 

Chồng

Quy lỗi

Con hư

Cha dong

Nam

Quy trách nhiệm

Khổ

Lấy chồng giầu

 

Oán trách

Chê chồng (2)

Chồng già, kém

Nữ

Oán cha mẹ

Nghèo khổ

Lấy chồng

Nhà chồng

Oán trách

Bắt nạt chồng

 

Nữ

Phê phán

Tồi (2)

 

Nam

Than vãn

Đánh chồng (2)

 

Nữ

Không nói rõ

Chồng ngu

Bị gả bán

 

Bực

Bỏ chồng

 

Nữ

 

Ghen chồng

 

Nữ

Không nói rõ

Không bênh vợ

 

Nam

Trách

Xung khắc

Bị ép gả

Nam và nữ

Trách

 

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

Gió đưa bụi chuối sau hè

Anh về vợ bé bỏ bè con thơ.

Vì đứt dây, nên gỗ mới chìm

Bởi anh ở bạc nên em phải tìm nơi xa.

Anh đi ghe nổi chín chèo

Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo

- Nợ treo mặc kệ nợ treo

Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.

4. Cái cò là cái cò quăm

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chả ai cho nằm.

5. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm

Còn như yêu vụng dấu thầm

Họp chợ trên bụng đến trăm con người!

6. ớt nào là ớt chẳng cay

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng?

Nói ra đau đớn trong lòng

ẤY cái nợ nần, có phải chồng đâu.

Từ các câu ca dao về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ vợ chồng,  chúng tôi thống kê được 40 tình huống, trong đó loại tiêu cực được nói đến nhiều nhất là Đa thê (15 câu), Nghiện hút, cờ bạc (13 câu), Phụ bạc nhau (12 câu), Lẳng lơ, đàng điếm (12 câu), Đánh vợ (7 câu). Khi phản ánh các hiện tượng tiêu cực trong quan hệ vợ chồng, các tác giả dân gian thể hiện nhiều thái độ khác nhau, nhưng nhìn chung là không gay gắt lắm. Các loại biểu hiện tiêu cực như nghiện hút, cờ bạc, đánh vợ… đều không bị phê phán trực diện. Đối với hiện tượng đa thê, thái độ của người phụ nữ cũng đa chiều:  khi thì chấp nhận ("Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào/Thím tôi chả bảo làm sao,/ Nói lên vài tiếng, lào nhào mấy câu.”), khi thì phản đối ("Chồng chung thì đừng"), và lúc lại trách móc (“Anh lấy vợ lẽ phụ tình thiếp chăng?”), trong đó chủ yếu là trách móc. Điều này cho thấy người Việt chịu ảnh hưởng của Nho giáo, của chế độ phụ quyền, trong đó cho phép người đàn ông có quyền năm thê bảy thiếp, đồng thời thể hiện cách sống hồn nhiên chân chất của cư dân nông nghiệp. Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác, thì việc xuất hiện tần số cao nhất: 15 lần nhắc đến đa thê trong các câu ca dao nói về tiêu cực vợ chồng, cho ta thấy lối ứng xử cam chịu của người phụ nữ, đồng thời cũng là vấn đề nhức nhối hằn sâu trong tâm tư của người phụ nữ. Sự bất công ấy phải chăng là nguyên nhân của việc không ai khác, mà chính người phụ nữ, đã cất cao tiếng nói hạ bệ thần tượng của chữ "trinh" để có những câu ca dao phản ánh thái độ bất cần của họ như một thói xấu trêu ngươi các chàng trai, đó là tính lẳng lơ. Từ tình trạng này, dẫn đến một hệ quả là trong ca dao, khuyết điểm bị nhắc đến nhiều nhất của phụ nữ là tính lẳng lơ, đàng điếm, với thái độ dè bỉu khinh khi. Các tác giả dân gian theo dõi từng trạng thái của người phụ nữ trong những cảnh huống khác nhau để lột tả sinh động những thói xấu của người phụ nữ: khi ở với chồng thì dành “quả ngọt” cho “trai", đang sống với chồng cũng “nom chồng người.”, khi xa chồng - "Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thời nhiều.”, tới mức “Loạn trôn từ thuở vắng chồng đến nay”, bị chồng đánh vì “ve ông lái mành”, ngông cuồng tới mức “Họp chợ trên bụng đến trăm con người!”,  "Có chồng càng dễ chơi ngang/Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?”, đến khi chồng chết cũng không thờ chồng được ở mức tối thiểu: “Chồng tôi mới được ba ngày/Ai ơi có đợi tôi rày hay không?" Những biểu hiện này cho thấy trong xã hội phong kiến, không phải là phụ nữ không dám bung phá, sống theo sở ý riêng, mặt khác cũng cho thấy dư luận hết sức quan tâm và khắt khe đối với phụ nữ. Điều này vừa biểu hiện cho sự áp chế của lễ giáo phong kiến đối với người phụ nữ, vừa thể hiện sự chống đối của người phụ nữ đối với lễ giáo ấy. Nương nhẹ cho những khuyết điểm của đàn ông, trong đó có những thói xấu mang tính phổ biến trong xã hội như đa thê, cờ bạc, rượu chè, đánh vợ, đồng thời lại ngặt nghèo đối với những khuyết điểm của phụ nữ, ca dao đã cho thấy rằng trong tâm thức dân gian, ý thức phụ quyền đã có sự chi phối ở mức độ nhất định đến cách nhìn nhận, đánh giá của nhân dân về cách thức ứng xử trong quan hệ vợ chồng.

2. QUAN HỆ CHA MẸ CON

2.1. Quan niệm dân gian về chữ Hiếu

Hiếu là một khái niệm hết sức quan trọng trong Nho giáo. Trong Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Phan Ngọc viết: “Không đạo lý nào nói đến chữ hiếu nhiều hơn Khổng giáo. Và dù cho chữ hiếu có được nhắc đến bởi Khổng Tử, Tăng Tử và vô số học giả thì chung quy chỉ là bổn phận của đứa con đối với cha mẹ mình. Và chấm dứt.” [81:112[. Trong Nho giáo xưa và nay, Quang Đạm viết:

"Hiếu tất nhiên là biết yêu thương cha mẹ, biết vào thưa gửi, đi báo cáo về trình diện, biết quạt nồng ấm lạnh, sớm hỏi chiều thăm, biết lập thành gia thất có con nối dõi tông đường, tránh được tội lớn "vô hậu".v.v. Có thể nói rằng đó là những việc quen thuộc mà người ta hay nói đến trong xã hội cũ trải qua mấy chục thế kỷ rồi. Nhưng Khổng Mạnh chủ yếu nhấn mạnh vào những điều có ý nghĩa cao sâu hơn về mặt đạo lý triết học. Ngay đến việc nuôi nấng cha mẹ, Khổng Khâu cũng dụng ý phê phán gay gắt một quan niệm đương thời là cứ có nuôi nấng là được. Lời phê phán như sau: "Ngày nay, nói người có hiếu là nói biết nuôi nấng. Đến như con chó con ngựa cũng đều có nuôi nấng cả. Không có lòng tôn kính thì có gì phân biệt." [30:177].

Rất sợ hậu sinh không giữ đúng đạo của cha ông, thầy trò Khổng Khâu nhiều lần nêu rõ những yêu cầu "kế", "thuật", "và "vô cải" (nghĩa là nối tiếp, làm theo và không thay đổi)...[30:180].

 “Dương danh, hiển nhân, cách báo hiếu tốt nhất.

Rất sợ "hậu sinh' "đổi khác", Nho giáo tìm đủ mọi cách làm cho con cháu cứ đi đúng theo cái đạo của cha ông, cứ "thiện kế", "thiện thuật'' mà làm nên nghiệp lớn, vươn lên cao mãi. Con hơn cha như vậy nhà càng có phúc. [30:180].

Trong ca dao, nhân dân ta cũng hay nói đến chữ Hiếu. Trong số 446 câu ca dao nói về quan hệ cha mẹ con, thì có 100 câu phản ánh tình trạng có hiếu hoặc bất hiếu, còn trong 1.179 câu ca dao nói về gia đình, có 25 câu ca dao có dùng trực tiếp từ hiếu.

Khảo cứu ca dao nói về đạo hiếu trong gia đình Việt Nam, chúng tôi thống kê như sau:

Tổng số câu ca dao đề cập đến đạo hiếu: 100 câu (21 câu có dùng trực tiếp chữ hiếu, hoặc hiếu trung), còn lại là nói gián tiếp.Số câu thể hiện sự có hiếu là 89 câu, sự bất hiếu là 11 câu.

Nội dung có hiếu đối với cha mẹ được ca dao phản ánh là:Đền ơn nuôi dưỡng, Chăm nom về vật chất, Thờ cha kính mẹ, Biết ơn cha mẹ, Chịu nhục, Biết sợ, Chịu cúi luồn, Lo lắng cho cha mẹ, Thờ cúng chu tất (hơn với chồng), Gắng học để thành danh, Coi cha mẹ hơn chồng, Coi trọng đền ơn hơn nhân duyên, Nhớ thương, Phụng dưỡng mẹ cha, Trọng công cha như nghĩa thầy, Mong cha mẹ sống lâu, Lao động làm giầu cho cha, Không được cãi cha mẹ, Hầu mẹ cha, Vợ chồng thờ chung cha mẹ, Trong thời gian để tang cha mẹ không nghĩ đến nhân duyên, Nối nghiệp cha ông.

Nội dung bất hiếu đối với cha mẹ được ca dao phản ánh là: Kể công nuôi cha mẹ, Ăn chơi phung phí của cha mẹ, Sao nhãng thăm nom, Hưởng riêng sang giầu, để mặc cha mẹ nghèo, Hỗn láo với cha mẹ, Quên ơn cha mẹ.

Nói chung, những nội dung về chữ hiếu mà ca dao người Việt phản ánh như đã dẫn trên đây đều được Nho giáo đề cập đến, chứng tỏ trên bình diện gia đình, chữ hiếu của Nho giáo đã được chuyển tải và thâm nhập khá sâu, rộng vào xã hội Việt Nam thời phong kiến. Tuy vậy, trong nội dung của chữ hiếu mà ca dao chuyển tải, thường hướng vào cách ứng xử thông thường trong cuộc sống, gần gũi với nếp sống, nếp nghĩ bình dị của người dân, còn những triết lý, yêu cầu cao siêu hoặc ngặt nghèo của Nho giáo thì không được đề cập.

Về đối tượng của chữ hiếu, Nho giáo quy định như sau:Hiếu đạo là nghĩa với cha mẹ, đồng thời cũng có thể là nghĩa đối với các thế hệ bề trên trong gia đình.”, “Con người hiếu đễ bao giờ cũng làm vui lòng cha anh" [30:175]. “Ba mối nhân luân trong gia đình là cha con, anh em và vợ chồng.” [30:183]. Như vậy, đối tượng của chữ hiếu chính là cha mẹ, người bề trên, nhưng Nho giáo nhấn mạnh đến cha anh, đến mối quan hệ cha - con.

Khi nói về hiếu, ca dao người Việt cũng chỉ rõ đối tượng là cha mẹ: với cha mẹ nói chung (88 câu), trong đó nói đến cả cha và mẹ trong cùng một câu ca dao là 59 câu, nói riêng về cha là 4 câu, riêng về mẹ là 26 câu, số câu có nhắc trực tiếp đến từ cha (hoặc thầy, thày)  là 50 câu, mẹ (hoặc má) là 67 câu, nói về công cha là 11 câu, về nghĩa mẹ là 20 câu. Có nghĩa là, đối tượng của chữ hiếu được ca dao người Việt quan tâm hơn cả là cha mẹ nói chung, tiếp đó là người mẹ. Trong mọi trường hợp, người cha đều được nói đến ít hơn người mẹ. Điều này cho thấy, khi sử dụng khái niệm hiếu, phản ánh tình trạng có hiếu hoặc bất hiếu, ca dao thiên về lối ứng xử thông thường và nặng về tình chứ không phải nặng về giáo lý, và người mẹ bao giờ cũng chiếm vị trí quan trọng hơn người cha. Điều này cũng chứng tỏ rằng, khi nói về chữ hiếu, người Việt giới hạn nó trong phạm vi gia đình là chính, không đồng nhất với quan niệm của Nho giáo, tức là chỉ khuôn chữ hiếuvào việc làm sao cho con sống có tình có nghĩa với cha mẹ là chính, chứ không phải hướng con người theo cách báo hiếu mang tính giáo lý của Khổng Mạnh là phải xây dựng được nghiệp lớn, biến nhà mình thành đại gia, có thế lực trong xã hội. Quan niệm của Khổng giáo không có con trai là bất hiếu cũng không hề có mặt trong các câu ca dao nói về đạo hiếu của người Việt, càng cho chúng ta thấy rõ khái niệm hiếu của Nho giáo tuy đã thâm nhập sâu vào xã hội, gia đình Việt Nam nhưng nội dung đã mờ nhạt.

2.2. Trách nhiệm của cha mẹ đối với con

Có 18 câu ca dao thể hiện trách nhiệm của cha mẹ với con. Đó là: Nuôi nấng, Chăm chút, Dạy dỗ, Dựng vợ gả chồng, Tạo dựng nhà cửa, Cho học hành.

Trong các trách nhiệm nói trên, việc chăm lo cho con học hành được nói đến nhiều hơn cả (5 câu), với mục đích rõ ràng là thành danh, hiển thân. Điều này cho thấy, về mặt giáo dục, người Việt đã chịu ảnh hưởng rõ rệt của Nho giáo, và đây là ảnh hưởng tích cực.

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Cơm cha áo mẹ chữ thầy

Gắng công mà học có ngày thành danh.

2. Con ơi muốn nên thân người

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha

Gái thời dệt gấm thêu hoa

Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa

Trai thời đọc sách ngâm nga

Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa

Nữa mai nối đặng nghiệp nhà

Trước là mát mặt sau là hiển thân.

3. Con cò bay bổng bay la

Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng

Cha sinh mẹ đẻ tay không

Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi

Trước là nuôi cái thân tôi

Sau nuôi đàn trẻ, nuôi đời cò con.

4. Nuôi con cho được vuông tròn

Mẹ thầy dầu dãi, xương mòn gối long

Con ơi, cho trọn hiếu trung

Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.

Đáng lưu ý là, tuy nói ít về trách nhiệm của cha mẹ đối với con, nhưng ca dao của người Việt lại nói nhiều đến công lao của cha mẹ, răn dạy con phải báo đáp. Sở dĩ như vậy vì ca dao thiên về tình cảm, các tác giả dân gian không chủ tâm đúc rút giáo lý trong quan hệ cha mẹ con, mà chủ yếu phản ánh tình cảm được bộc lộ qua mối quan hệ ấy. Qua những câu ca dao nói lên công lao của cha mẹ đối với con, lại thấy nổi lên trách nhiệm của cha mẹ rất lớn, thiên về việc nuôi nấng, chăm chút, hy sinh cho con, mong con nên người, kể cả học hành để thành danh, hiển thân.  quan hệ cha mẹ con

Chúng tôi thống kê được 37 câu ca dao nói lên những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con.  Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

2. Mẹ già hết gạo treo niêu

Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.

Về các biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con, trong phần Hôn nhân, chúng tôi sẽ có dịp nói đến khía cạnh ép duyên, mà chủ yếu là do yếu tố kinh tế - cha mẹ tham tiền, tham giầu mà ép duyên con. Trong phần này, chúng tôi xem xét khía cạnh con đối xử không tốt với cha mẹ. Có 7 câu ca dao nói về hành động tiêu cực của con đối với cha mẹ là: Cãi cha mẹ, Kể công nuôi cha mẹ, Để cho mẹ khổ trong khi mình giầu sang. Hai loại tiêu cực đầu mang yếu tố tinh thần, loại tiêu cực sau mang yếu tố vật chất. Thái độ của các tác giả dân gian trước các hành vi sai trái của con đối với cha mẹ không được bộc lộ rõ ràng, chỉ có một trường hợp nói thẳng rằng "con cãi cha mẹ" là "con hư". Trong các trường hợp này, ca dao phản ánh một cách khách quan là chính, để người nghe tự rút ra kết luận và tỏ thái độ.

3. QUAN HỆ NÀNG DÂU VÀ GIA ĐÌNH CHỒNG

Chúng tôi thống kê được 63 câu ca dao nói về quan hệ của nàng dâu đối với gia đình nhà chồng, thì có tới 33 câu thể hiện những biểu hiện tiêu cực, chỉ có 14 câu biểu hiện sự tích cực (chủ yếu là đối vơí mẹ chồng). Tức là có 52% số câu ca dao về quan hệ nàng dâu - nhà chồng phản ánh tính tiêu cực, và số câu ca dao nói về các hiện tượng tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng nhiều gấp 2,35 lần số câu nói về các hiện tượng tích cực. Tỷ lệ này là cao, đồng thời với nội dung của các câu ca dao nói lên những tiêu cực trong quan hệ nàng dâu với nhà chồng cho thấy từ trong truyền thống, đây là mối quan hệ mang nhiều nỗi nhức nhối thuộc gia đình người Việt. Nói cách khác, mâu thuẫn nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của người Việt.

Qua các câu ca dao nói về quan hệ nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi rút ra bảng thống kê như sau:

Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng

HIỆN TƯỢNG

NGUYÊN NHÂN

TÁC NHÂN

Làm việc vất vả vẫn bị chê

 

Nhà chồng

Đay nghiến

 

Mẹ chồng

Doạ khâu miệng mẹ chồng

Bị đay nghiến

Con dâu

Mong mẹ chồng chết

Bị đay nghiến

Con dâu

Khôn khéo vẫn bị chê (4 câu)

 

Mẹ chồng

Bị chồng đánh, bị xui đánh thêm

 

Mẹ chồng

Mong mẹ chồng ốm để cho thuốc độc

Bị ngược đãi

Con dâu

Khóc than

Bị hành hạ

Mẹ chồng

Bỏ về nhà mẹ đẻ

Mẹ chồng ác nghiệt

Mẹ chồng

Khóc

Bị chửi

Mẹ chồng

Muốn bỏ đi

Bị hành hạ, chê nghèo

Mẹ chồng

Ăn không ngon

Thấy mẹ chồng

 

Nghèo đi

Lấy chồng

 

Tàn tạ đi

Bị đánh mắng

Mẹ chồng

Rầu

Bị coi rẻ

Mẹ chồng

Rủa mẹ chồng

 

Con dâu

Không khen nhau

Quan hệ không bình đẳng

Mẹ chồng

Không dám về với chồng

Sợ bị chê nghèo

Cha mẹ chồng

Nhờ chồng lạy mẹ

Bị đánh

Mẹ chồng

Nhịn nhục, nhịn ăn mặc

Mẹ chồng ác

Mẹ chồng

Bị hành hạ

Lấy chồng giầu

Mẹ chồng

Không yêu nhau

Vì là nàng dâu mẹ chồng

 

Xui chồng chống mẹ

Bị đòn

Mẹ chồng

Chí nguyện vẫn bị chê

 

Mẹ chồng

Bị đối xử bất công

Là con dâu

Mẹ chồng

Cực nhọc, đói khổ, rách rưới

Là con dâu

Mẹ chồng

        Các tình huống tiêu cực trong quan hệ nàng dâu mẹ chồng được thống kê ở bảng trên cho thấy sự mâu thuẫn gay gắt của hai đối tượng này. Sự phản ứng quyết liệt, những lời nói nặng nề, hành vi không khoan nhượng giữa mẹ chồng - nàng dâu trong gia đình dưới chế độ phong kiến ở Việt Nam cho thấy mặc dù đề cao phụ quyền nhưng vai trò của người cha cũng chưa đủ mạnh để tạo dựng nên những quan hệ tốt đẹp và chưa đủ uy để trấn áp các hành động gây bất hoà giữa các thành viên trong gia đình. Điều này khác với gia đình phụ quyền ở Trung Quốc, trong đó người con dâu chịu lép một bề, cúi đầu tuân phục mọi phép tắc của nhà chồng.

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Mẹ chồng nàng dâu

Chúa nhà người ở, khen nhau bao giờ.

2. Thật thà cũng thể lái trâu

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

3. Bà kia bận áo xanh xanh

Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu

Bà ơi! Tôi không sợ bà đâu

Tôi xe sợi chỉ, tôi khâu miệng bà

Chừng nào bà chết ra ma

Trong chay ngoài hội, hết ba chục đồng

Không khóc thì sợ lòng chồng

Có khóc cũng chẳng mặn nồng chi đâu.

4. Chàng nhìn thiếp rưng rưng hột luỵ

Thiếp nhìn chàng lã chã hột châu

Mẹ cha hành hạ thân dâu

Anh đau lòng phải chịu, biết làm sao bây giờ?

5. Cô kia đội áo đi đâu?

- Tôi là phận gái làm dâu mới về

Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê

Tôi ở chẳng được tôi về nhà tôi.

Những biểu hiện tích cực trong quan hệ nhà chồng - nàng dâu.

HIỆN TƯỢNG

NGUYÊN NHÂN

TÁC NHÂN

Coi như con đẻ

Dâu hiền

Gia đình chồng

Cùng lao động

 

 

Thương mẹ chồng

 

Con dâu

Chăm mẹ chồng

 

Con dâu

Coi bình đẳng như con

 

Nhà chồng

Kính trọng mẹ cha chồng

 

Con dâu

Nuôi mẹ thay chồng

 

Con dâu

 

Một số câu ca dao tiêu biểu là:

1. Năm trai, năm gái là mười

Năm dâu, năm rể là đôi mươi tròn.

3. Xin anh đi học cho ngoan

Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài

Quan tiền dài em ngắt làm đôi

Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già

Mẹ già là mẹ già anh

Một ngày hai bữa cơm canh mẹ già

Bát cơm em nấu như hoa

Bát canh em nấu như là mật ong

Nước mắt em lọc cho trong

Mâm cơm em dọn tựa dòng cơm quan .

Từ các tình huống thể hiện tính chất tích cực và tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng, chúng tôi có mấy nhận xét như sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn chủ yếu trong gia đình là mâu thuẫn giữa nàng dâu và mẹ chồng mà tác nhân chính là mẹ chồng. Nói cách khác, mẹ chồng là người chủ yếu tạo nên các mâu thuẫn với nàng dâu.Thứ hai, khi làm dâu, người con gái chịu đủ mọi nỗi khổ, cả về vật chất và tinh thần, nhưng không được biết rõ nguyên nhân thực sự làm cho mình bị ngược đãi. Có nghĩa là, qua ca dao, chúng ta thấy ở một bộ phận xã hội, làm dâu đồng nghĩa với phải cam chịu cảnh sống tôi đòi. Đặc biệt, ca dao đã nhiều lần khẳng định làm dâu nhà giầu thì chỉ có khổ.Thứ ba, các phản ứng tiêu cực của nàng dâu đều hướng vào mẹ chồng. Sự phản ứng của nàng dâu có nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc ở sự ngược đãi đối với mình, trong đó nhiều trường hợp đã phản ứng gay gắt, tới mức đối kháng. Thứ tư, những biểu hiện tích cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng chủ yếu do nàng dâu tạo nên, hoặc do nhà cha mẹ chồng tạo nên, không có trường hợp nào do mẹ chồng tạo nên. Trong các trường hợp biểu hiện tính tích cực trong quan hệ nàng dâu - mẹ chồng do cha mẹ chồng tạo nên, thể hiện tính dân chủ, bình đẳng, nhưng chỉ bộc lộ qua nhận thức chứ không phải là những ứng xử cụ thể: nếu dâu mà hiền thì được coi như con, khi tính lượng người trong nhà, con dâu con rể cũng được tính ngang hàng với con trai con gái.

Những nhận xét trên đây dẫn đến kết luận là ca dao đã phản ánh mâu thuẫn trong gia đình người Việt trong xã hội phong kiến, chủ yếu bộc lộ qua mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng. Mâu thuẫn này được thể hiện trên nhiều bình diện của cuộc sống, từ vật chất tới tinh thần, với nhiều mức độ, mà cao nhất là có thể dẫn đến hành động loại trừ nhau.

Tìm hiểu hoàn cảnh kinh tế - xã hội thời phong kiến, chúng ta có thể thấy được nguyên nhân sâu sa của mâu thuẫn ấy. Như chúng ta đã biết, trong chế độ phong kiến, lao động của người nông dân phần lớn mang tính đơn giản, năng suất thấp, đòi hỏi nhiều sức lao động. Sống ở nông thôn mà nhà neo người thì gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, các gia đình ở nông thôn rất cần nhân lực. Theo chế độ phụ hệ, người phụ nữ khi lấy chồng phải theo chồng. Khi về nhà chồng, người phụ nữ là một nhân lực được bổ sung, do vậy bao giờ nhà chồng cũng tìm cách khai thác tối đa khả năng lao động mới ấy. Vì thế, đã hình thành trong tâm lý cư dân nông thôn thói quen tận dụng sức lao động của người làm dâu. Điều này được thể hiện qua nhiều câu ca dao, trong đó có những câu nói rõ làm dâu nhà giầu thì khổ - chính là vì nhà giầu ở nông thôn thường là những gia đình bóc lột, và thói quen bóc lột ấy đã khiến những gia đình này càng áp chế, tận dụng sức lao động của nàng dâu hơn các gia đình khác (nói về hôn nhân, có 14 câu ca dao có từ tham). Để thấy rõ hơn đặc điểm về việc tận dụng sức lao động của nàng dâu trong gia đình nông dân thời phong kiến, chúng ta có thể liên hệ qua số phận của những anh chàng gửi rể, như:

Trời mưa cho ướt lá khoai

Công anh làm rể đã hai năm ròng

Nhà em lắm ruộng ngoài đồng

Bắt anh tát nước, cực lòng anh thay

Tháng chín mưa bụi gió may

Cất lấy gàu nước, hai tay rụng rời.

Có nghĩa là, ngay cả nam giới, khi đem thân ở nhà người khác (bố mẹ vợ) thì cũng bị tận dụng sức lao động, cũng chịu cảnh sống tôi đòi chứ không riêng gì nàng dâu. Mặt khác, về tâm lý, tình cảm, dù sao nàng dâu cũng chỉ là người dưng, về chung sống với gia đình nhà chồng đã "chiếm mất" người con trai của gia đình, làm cho anh ta không còn tập trung tình cảm cho mẹ như trước, rất dễ trở thành đối tượng ghen ghét của mẹ chồng. Cộng vào đó là cuộc sống cực nhọc, thiếu thốn, gò bó khiến các thành viên gia đình phải xoay tròn trong một vòng sống có nhiều va chạm, thì mâu thuẫn nảy sinh là khó tránh khỏi. Còn một nguyên nhân nữa, theo quan niệm Nho giáo, con dâu về nhà phải "theo thói nhà chồng", nhà chồng cần dạy bảo cho nàng dâu cách sống thật sự thích hợp với yêu cầu của gia đình mình, do vậy rất nghiêm khắc, thậm chí đối xử nghiệt ngã với nàng dâu.

Dựa vào sự dẫn chứng, phân tích trên đây, chúng tôi thấy rằng nguyên nhân thuộc về yếu tố kinh tế và tâm lý, tình cảm, cùng với ảnh hưởng của Nho giáo đã làm nảy sinh những tiêu cực nặng nề trong quan hệ nàng dâu nhà chồng. Trong xã hội ngày nay, di chứng này còn ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình hiện đại, tuy đã giảm bớt mức độ gay gắt.

Về những biểu hiện mang tính dân chủ trong quan hệ nhà chồng nàng dâu, cũng chủ yếu xuất phát từ điều kiện xã hội nông thôn mà có. Đó là vì người nông dân xưa sống trong làng là chính, mà làng lại hình thành từ các nhóm gia đình, gần gũi và thân thiết nhau. Với cơ cấu đặc biệt xóm, ngõ, giáp, làng Việt là nơi cố kết các gia đình với nhau. Qua quá trình gây dựng quê hương, tình làng nghĩa xóm ngày càng bền chặt. Cũng do các điều kiện kinh tế - xã hội thời phong kiến, người nông dân thường lấy vợ lấy chồng trong làng trong xã, thế là những cô dâu, chú rể dù có trở thành thành viên của gia đình khác, thì cũng có sự gần gũi của tình làng nghĩa xóm.

Tóm lại, quan hệ nàng dâu - nhà chồng dù là mang tính tích cực hay mang tính tiêu cực, thì cũng được quy định bởi nhiều yếu tố kết hợp, gồm yếu tố kinh tế - xã hội, yếu tố tâm lý, tình cảm, và yếu tố Nho giáo (ở một mức độ nhất định).

4. QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN

Tình yêu và hôn nhân là chủ đề muôn thủa của văn học. Qua các câu chuyện về hôn nhân trong chế độ phong kiến, các tác giả đã phản ánh được thực trạng cũng như quan niệm của xã hội về hôn nhân, trong đó phần lớn lên án sự hà khắc của lễ giáo phong kiến, thứ lễ giáo đã làm thui chột tình yêu chân chính của con người, dìm con người trong biển khổ của sự chia cắt nhân duyên. Ca dao người Việt phản ánh khá sinh động tình trạng hôn nhân trong xã hội phong kiến. Đã có một số nhà nghiên cứu đã đào sâu vào kho tàng ca dao để tìm ra những vấn đề mang tính bản chất của hôn nhân trong xã hội phong kiến.

Trong Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa viết:

"Cái tình yêu khăng khít, cái tương tư nồng nàn, cái gắn bó keo sơn của họ, rút cục, thường chỉ đưa đến một thất vọng chua cay. Nguyên nhân của sự thất vọng là quyền áp chế của cha mẹ. Theo luân lý phụ quyền thì cha mẹ có quyền tuyệt đối trong việc định hôn nhân cho các con, vì hôn nhân không phải là công việc thụ hưởng ái tình mà chỉ là một khí cụ để nối truyền gia thống nên cha mẹ không để ý đến cái yêu đương của con trẻ." [63:125].

Trong Thi ca bình dân Việt Nam các tác giả phân tích quan niệm về gia đình của người Việt Nam trong xã hội phong kiến như sau:

"Đối với người con gái, ý thức tại gia tòng phụ được thể hiện rõ rệt nhất trong ca dao về phương diện hôn nhân. Vì cho mình không có quyền hạn gì trong việc lựa chọn, nên họ đã đem số phận tương lai uỷ thác vào quyết định của cha mẹ. [72:186].

"Dù trai gái có thương yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám nghĩ đến vượt quyền quyết định của mẹ cha!… Quyền định đoạt của cha mẹ đối với con  một cách độc đoán như vậy đã nảy sinh trong gia đình Việt Nam, nhất là đối với việc hôn nhân, không biết bao nhiêu đổ vỡ, mà kẻ chịu thảm nạn là người con gái, lớp người mà chế độ “tại gia tòng phụ” của Khổng Mạnh đã dành sẵn cho họ.… Dù trai gái có thương yêu nhau đến đâu, họ cũng không dám nghĩ đến vượt quyền quyết định của mẹ cha!... Hễ cha mẹ không bằng lòng thì hôn nhân của đôi lứa phải tan vỡ, dù trai gái đã thương nhau đến bực nào. Ngược lại, khi cha mẹ bằng lòng, dù trai gái không thương nhau cũng phải lấy nhau. [72:187].

Trong Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca dao Việt Nam, Hằng Phương viết:

"... ở nước ta, dưới chế độ phong kiến, việc hôn nhân của con  đều do cha mẹ quyết định: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.” [122:2].

“Thời phong kiến hầu hết cha mẹ thường quan niệm mình có toàn quyền lo liệu hôn nhân cho con. Không đếm xỉa đến những nguyện vọng mơ ước của tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình con  sau này.’’ [122:7].

Tác giả đã trích dẫn ca dao để khái quát thành 7 vấn đề lớn nói lên những mặt tiêu cực trong hôn nhân, gia đình dưới chế độ phong kiến là: Những nỗi lo âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xưa, Cưỡng ép hôn nhân, Tảo hôn, Đa thê, Cảnh goá bụa, Mẹ chồng nàng dâu, Mẹ ghẻ con chồng, Không dân chủ trong gia đình.

Trong Tục cưới hỏi, các tác giả Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo viết:

"Trong xã hội cũ, cha mẹ đóng vai trò quan trọng, quyết định cuộc đời của các đôi nam nữ thanh niên. Với những gia đình nền nếp, có gia giáo thì '’cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", và gia đình hai bên phải "môn đăng hộ đối" [79:5].

Trong Tục ngữ, ca dao Việt Nam, Mã Giang Lân viết:

"Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động được thể hiện bằng những tình cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp phong kiến muốn bóp chết những tình cảm hồn nhiên, lành mạnh ấy. Vì vậy trong ca dao, bên cạnh tiếng hát ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ xót xa về những trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan trai gái không hợp tính nết nhau hoặc ngập ngừng e ngại, nhưng phần lớn là do những nguyên nhân xã hội do xã hội phong kiến gây ra.… Và cũng dễ hiểu, trong ca dao có nhiều bài phản ánh tinh thần đấu tranh để bảo vệ tình yêu chân chính của những “chàng trai” và “cô gái”.

"Những câu ca dao về chủ đề hôn nhân và gia đình biểu hiện các mối quan hệ đẹp đẽ giữa tình cảm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em, họ hàng… Cho nên lời than thở của người phụ nữ về số phận của mình dưới chế độ phong kiến là âm điệu chủ yếu của mảng ca dao này." [70:7].

Vũ Ngọc Phan viết:

"Nhưng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân, tư tưởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tư tưởng chủ đạo. Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ưng thuận, thì họ cũng không kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh." [114:339].

Qua một số ý kiến dẫn ra trên đây, chúng tôi thấy có hai cách đánh giá khác nhau: cách thứ nhất nhận định trai gái nước ta hoàn toàn chịu phục tùng lễ giáo phong kiến trong hôn nhân, cách thứ hai nhận định có sự đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến. Qua khảo sát ca dao về hôn nhân, chúng tôi thấy rằng người Việt có cách thức ứng xử nhiều chiều, có khi tuân phục lễ giáo phong kiến, có khi bung phá, cũng có khi lưỡng lự suy xét để hành động theo lẽ thường tình của quan hệ gia tộc.

Sau đây là một số điểm cần chú ý về số lượng:

       Tổng số câu ca dao nói về hôn nhân: 171 câu.

       Trong đó:

                 + Thể hiên sự cam chịu: 38 câu

                 + Thể hiện sự trách móc: 34 câu

                 + Thể hiện quyền của cha mẹ: 5 câu

                 + Thể hiện sự phản kháng: 17 câu

                 + Thể hiện sự chủ động: 35 câu

                 + Thể hiện sự lưỡng lự: 21 câu

                 + Thể hiện sự tự giác: 18 câu

       Tổng hợp lại, có thể chia thành 4 loại thái độ:

                 + Chịu sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 76 câu

                 + Chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến: 53 câu

                 + Giữ đúng bổn phận làm con theo lẽ thương tình: 36 câu.

                 + Thể hiện sự dân chủ trong hôn nhân: 6 câu.

Như vậy, số câu thể hiện sự áp đặt của lễ giáo phong kiến về hôn nhân và con  phải chấp nhận là 76, số câu thể hiện ngược lại hoặc khác với sự áp đặt là 95 câu. Nhìn vào số lượng các câu ca dao “trái chiều” nhau, cho thấy nhận định rằng qua ca dao thấy rõ con hoàn toàn chịu sự áp chế của cha mẹlà không đúng.

Sau đây, chúng ta tìm hiểu chi tiết hơn các tình huống ứng xử về hôn nhân trong gia đình người Việt thể hiện qua ca dao.

4.1. Hôn nhân chịu sự chi phối của lễ giáo phong kiến

Qua 76 câu ca dao thể hiện sự cam chịu của con trước sự áp đặt của cha mẹ trong hôn nhân, chúng tôi rút ra các tình huống như sau:

 

TÌNH HUỐNG

CHA MẸ

CON

HẬU QUẢ

Được hỏi làm vợ

Chê bai

Bảo đem lễ về

 

Bị gả bán (2 câu)

 

Trách chồng

Đau lòng

Được tỏ tình

Không đồng tình

Không dám cãi

 

Bị phụ tình (2)

ép gả

Ham quyền quý

Lìa nhau

Yêu nhau

Không đồng tình

Thất ước

Lấy chồng xa

Muốn gặp nhau

 

Sợ mẹ cha

Không gặp

Đang gặp nhau

 

Sợ mẹ cha

Bảo về

Yêu nhau

Không cho

Khóc rồi về

 

Phải lòng nhau

Rình

Không làm quen

Quên nhau

Yêu nhau

Không đồng tình

Cầu xin

Sầu, than

Yêu nhau

Không đồng tình

Khóc

Khổ

Quen nhau

Nghiêm khắc

ít đến

Nhạt tình

Bị gả bán (3)

 

 

Bực

Yêu

Thách cưới

Mặc tình

Tiếc công

 

Khuôn phép

Không lai vãng

Quên nhau

 

Tham việc tiếc công

Không lo lấy chồng

 

 

Gả chồng

Không phản ứng

Sầu

Yêu

Ngăn cấm

Đăm chiêu

Sầu

Yêu nhau

Ngăn cấm

Nghe theo

 

Yêu nhau

Ngăn cấm

 

Không lấy được nhau

Hỏi vợ

Không ưa

Trách

 

 

Không chiều

Trách

 

Yêu nhau (2)

Không lo cho

Trách

Xa nhau

Yêu nhau

Ngăn cấm

Trách

Xa nhau

Yêu nhau

Chọn nhầm

Trách

 

Yêu nhau

Quá lời

Trách

Bỏ rời

Bị ép gả

ÉP, dỗ dành

Xót xa

Vợ chồng xung khắc

 

Kén rể

 

Lâu duyên con

Yêu nhau

Không rõ thái độ

Chờ đợi

 

Xa nhau

Nghĩ không sâu

Trách

Sầu, nhớ

Bị ép duyên

 

Trách

Sầu

Bị gả bán

Tham vàng

Trách

Sầu

Xa nhau

Tham giầu

 

 

 

Gả không đúng chỗ

 

Trở về

Lấy  chồng miền biển

Ham ăn ngon

 

Xa quê

Xứng đôi

Nói không

 

Rời duyên

Xa nhau

 

 

 

Yêu nhau

Theo hủ tục

Lưỡng lự

 

Cách phân

Xui khiến

 

Không bén duyên

Bị ép gả

ÉP vào

Chấp nhận

Gắn bó

Bị ép gả

Tham giàu

 

 

Bị ép gả

 

 

Đau đớn

Lỡ thì

 

 

 

Chồng già

Tham tiền

Oán

Tủi

 

Bội ước

 

 

Mới bén duyên

Cầm duyên

Trách

 

Bị cắt duyên

 

 

 

Chồng thấp vợ cao

Tham lam

 

 

Chồng thấp, trẻ con (2)

Tham lam

Trách

Tủi

Bị gả về giồng

 

Than phận

Không kham được gánh gồng

Bị đòn

Tham lam

 

 

Bị chồng đòn

Tham lam

 

 

Hợp đôi

Không tính

Trách

 

Bị ép duyên

 

Đắng cay

 

Bị ép duyên

Tham lam

 

Bị làm lẽ

Bị cầm duyên

Tham, thách cưới

Chờ đợi

Bị giảm giá trị

 

Tham giầu

Trách

Bị gả đi xa

 

 

Bực

Ra đất người

76 câu ca dao với 58 tình huống thể hiện sự cam chịu của con cái trước sự áp đặt của cha mẹ về hôn nhân chứng tỏ vai trò của cha mẹ đối với con cái trong các gia đình nông dân dưới thời phong kiến rất quan trọng. Bố mẹ được sự hỗ trợ của tư tưởng phong kiến đã tạo ra được uy quyền chi phối hôn nhân của con cái. Xem các tình huống cam chịu được kê ở bảng trên, chúng ta cần chú ý rằng số tình huống cha mẹ tham của cải, tham gả con cho nhà giầu chiếm tỷ lệ cao. Điều đó nói lên vật chất ở thời phong kiến đã là thứ đặt cược cho hạnh phúc của gái trai.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Ai bưng bầu rượu đến đó

Chịu khó bưng về

Em thương anh thảm thiết trăm bề

Heo vay cau tạm áo mượn võng thuê

Thầy mẹ em nay nhún mai trề

Dạ không nỡ dạ, em không dám chê anh nghèo.

2. Em thương anh, cha mẹ không cho

Tìm nơi khuất tịch, khóc no rồi về.

3. Mẹ cha nghiêm khắc cùng mình

Nên tôi ít lai vãng, mới nhạt tình đôi ta.

4. Thương nhau chẳng lấy được nhau

Mẹ cha trồng sậy, trông lau ngăn rào.

5. Ba tàn ba heó vì cây

Con sầu vì mẹ vì thầy ép duyên.

6. Bác mẹ em vội tham vàng

Hang hùm lại ngỡ hang vàng gả con

Trước thời thẹn với nước non

Sau thời cay đắng lòng con đêm ngày

Khi vui có bác mẹ thầy

Cơn sầu em chịu đắng cay một mình

Mang thơ ra dán cột đình

Kẻ xuôi người ngược thấu tình em chăng?

Phong ba nổi giữa đất bằng

Một dây một buộc ai dằng cho ra!

Thiết gì một cảnh vườn hoa

Mà đem đầy đoạ thân ta thế này?

Thấu chăng hỡi bác mẹ thầy

Ngỡ rằng gả bán, hoá đầy thân con!

7. Anh đi về đi, kẻo thầy em dứt, kẻo mẹ em la

Trận đòn oan em chịu, anh ở xa biết gì!

8. Hà Nội ba mươi sáu phố phường

Hàng Mật, Hàng Đường, Hàng Muối trắng tinh

Từ ngày ta phải lòng mình

Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen

Làm quen chẳng được làm quen

Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.

Tình huống phổ biến là các đôi trai gái yêu nhau (26 trong 58 tình huống) và bị cha mẹ ngăn cấm hoặc không đồng tình, do đó họ phải rời xa nhau, để rồi buồn thảm, than khóc. Tuy vậy, trạng thái của các tình huống này không căng thẳng lắm, không thể hiện sự áp chế gay gắt. Cách thức phản ứng của các đôi trai gái trong các tình huống này mang tính buông xuôi. Như vậy, hậu quả mà họ gánh chịu có phần do họ chứ không phải hoàn toàn do bị áp chế. Trong 8 câu ca dao dẫn ra trên đây, chúng ta thấy rằng trước tình yêu của những đôi trai gái, cha mẹ họ không tỏ thái độ quá gay gắt, mà chỉ ở mức vừa phải (nay nhún mai trề, không cho, nghiêm khắc, ngăn rào) mà họ đã buông xuôi (không nỡ, khóc, ít lai vãng), không vượt lên khỏi hoàn cảnh để đi đến với nhau. Trong những trường hợp này, chúng ta có thể quy trách nhiệm cho lễ giáo phong kiến quá hà khắc, khiến con cái phải hy sinh tình yêu để giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, cũng do điều kiện khá cô biệt của làng khiến các đôi trai gái bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ với gia tộc, xóm giềng, bị sức mạnh của dư luận đè nén, không dễ gì bung phá để đến với nhau, nhưng cũng có thể nhận xét rằng tình yêu trong các trường hợp này chưa đủ mạnh tạo nên sự bung phá cho các đôi uyên ương. Sự căng thẳng diễn ra qua 16 tình huống mà trong đó cha mẹ gả bán, cầm duyên, ép buộc cũng nhận được phản ứng không mấy mạnh mẽ (sầu, cay đắng). Những điều dẫn ra trên đây hoàn toàn trái ngược với các tình huống dẫn ra trong mục sau thể hiện tình yêu mãnh liệt của trai gái, khiến họ bất chấp tất cả để bảo vệ tình yêu của mình.

Về quyền cha mẹ trong hôn nhân, có bốn câu ca dao nói trực tiếp, trong đó có hai câu thể hiện cách thức sử dụng quyền ấy như sau:

1.  Con ta gả bán cho người

Cờ ai nấy phất chứ chơi đâu mà.

2.  Nuôi con những tưởng về sau

Trao duyên phải lứa, gieo cầu phải nơi

Mực đen vô giấy khó chùi

Vợ chồng, chồng vợ việc đời trăm năm.

Đó là hai lối suy nghĩ trái ngược nhau, một là theo lối gia trưởng, áp đặt hôn nhân, hai là theo lối dân chủ có trách nhiệm với hạnh phúc của con.  Như vậy, ngay trong quan niệm của dân gian về quyền của cha mẹ trong hôn nhân cũng có sự đa dạng, không phải là một chiều theo lễ giáo phong kiến.

4.2. Nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến

Qua 53 câu ca dao thể hiện sự chống lại của nam nữ đối với lễ giáo phong kiến, chúng tôi rút ra 47 tình huống như sau:

TÌNH HUỐNG

CHA MẸ

CON

KẾT QUẢ

Yêu nhau

Không bằng lòng

Vẫn yêu

 

Chưa chồng

 

Tự liệu

Kịp duyên

Yêu nhau

Đánh đập

Quyết lấy nhau

 

Bị gả bán

 

Xin hoãn

 

Yêu nhau

Đánh, ngăn

Không xa nhau

 

Yêu nhau

Đánh, ngầy

Vẫn đi

Gặp nhau

Bị ép gả

 

Tìm cách thoát

 

Yêu nhau (3 câu)

Đánh

Vẫn yêu

 

Yêu nhau

Doạ thả trôi bè

Không sợ

Lôi nhau về

Yêu nhau

Chia rẽ

Mặc

Giữ lời nguyền

Bị ép gả

Gả bừa

Liều mình

Thoát

Yêu nhau

Chửi mắng

Không sợ

Càng yêu

Yêu nhau

Đánh, chê

Không nghe

Quyết lấy

Bị ép gả

 

Đòi tự vẫn

 

Yêu nhau

Đánh, đày

Thà chịu chết

Thuỷ chung

Đi lấy chồng (2)

 

Lạy cha mẹ, xin của

 

Yêu nhau

 

Giấu cha mẹ

 

Yêu nhau

Không thương

Lạy. Nhờ hàng xóm

 

Yêu nhau

 

Quên công cha mẹ

Theo nhau

Yêu nhau

Xe ít

Xe nhiều. Nhờ xe

 

Yêu nhau

Không thương

Vẫn đợi

 

Yêu nhau

Phải theo

 

 

Yêu nhau

Cấm đoán

Vẫn sắm sửa

Đi lấy chồng

Lấy chồng

Răn dạy

Xin vốn làm ăn riêng

 

Yêu nhau

Nghe theo

Không chê nghèo

 

Yêu nhau

Kén

Không ngại

 

 

Cấm đoán

Sắm sửa

Đi lấy chồng

 

Cấm đoán

Xin đừng cấm

 

Yêu nhau

Nói

Mặc

Thương lâu dài

Yêu nhau

 

Tin rằng cha mẹ cũng ưng

 

Lấy chồng

 

Để mẹ cho anh trai

Theo chồng

Yêu nhau

 

Bỏ mẹ ra đi

Thất hiếu

Yêu nhau

 

Dấu cha mẹ

Đưa anh về

Yêu nhau

La rầy

Không bỏ

 

Yêu nhau

Thương hay không

Vẫn lấy nhau

 

Yêu nhau

 

Vấn vương

Lỗi đạo

Thương chồng

 

Lạy mẹ

Theo chồng

Thờ cha kính mẹ

 

Theo đôi lứa

Thành thất gia

Lấy chồng

 

Để mẹ cho em

Không sai chữ tòng

Lấy chồng

 

Để mẹ cho con trai

Gắn bó với chồng

Yêu nhau

 

Cắp nhau đi

Đền công cha mẹ sau

Yêu nhau

 

Dối mẹ

 

Yêu nhau

 

Thương chàng hơn

 

Yêu nhau

Ngồi không yên

Than thở

 

Lấy chồng

Kêu

Lạy. Thương chồng

Theo chồng

Yêu nhau

Đánh mắng

Không sợ

Tung chiếu ra đi

Yêu nhau

 

Lấy nhau

 

 

47 tình huống nam nữ chống lại sự đè nén của lễ giáo phong kiến nêu trên phản ánh tính chất quyết liệt của hai xu hướng - xu hướng tự do hôn nhân, và xu hướng ép hôn nhân vào trật tự của lễ giáo phong kiến. 47 tình huống ấy được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau.

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

Con lạy cha hai lạy một quỳ

Lạy mẹ bốn lạy con đi lấy chồng

Mẹ sắm cho con  yếm nhuộm nhất phẩm hồng

Thắt lưng đũi tím, bộ nhẫn đồng con đeo tay.

Dầu thầy mẹ không thương

Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đường lạy vô

Lạy cùng ông bác bà cô

Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ

Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ

Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.

Đôi ta như chỉ xe ba

Thầy mẹ xe ít thì ta xe nhiều

Đôi ta như chỉ xe năm

Thầy mẹ xe ít ta cầm ta xe

Đôi ta như chỉ xe mười

Thầy mẹ xe ít, mượn người ta xe.

Em thương anh cha mẹ cũng phải theo

Chiếc tàu buồm kia đang chạy, quăng neo cũng ngừng.

Thương nhau cắp quách nhau đi

Công cha nghĩa mẹ sau thì hãy hay.

6. Thờ cha, kính mẹ đã đành

Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.

Rượu ngon một chén cũng ngon

Thầy mẹ thương con cũng gả, không thương con cũng gả

Con thiên lí mã, con vạn lí vân

Biết rằng hai họ giao lân

Bốn sui gia ngồi lại, thiếp gửi thân cho chàng.

Tay đeo khăn gói qua sông

Mẹ ôi lạy mẹ thương chồng phải theo.

Vai mang khăn gói theo chồng

Mẹ kêu con dạ, trở vào lạy mẹ cùng cha

Xưa kia con ở nội gia

Bây giờ con xuất giá tùng phu, nội gia tùng phụ

Sách có chữ: tam cương thường ngũ

Ngoài bìa có chữ phu phụ đạo đông

Thương cha, nhớ mẹ, đạo thương chồng phải theo.

10. Nơi mô em hãy chí quyết một nơi

Mẹ già không há dễ sống đời nuôi con.

Thống kê qua bảng trên cho thấy có 31 trường hợp thể hiện rõ tình yêu qua 47 tình huống ứng xử, và thái độ của cha mẹ cũng rất cứng rắn: ngăn cấm, doạ nạt, đánh đập, doạ thả bè trôi sông, gả bừa. Đáp lại, thái độ của con vừa khôn khéo vừa quyết liệt: lúc thì cầu xin, lúc thì vận động cả họ hàng giúp đỡ, lúc thì mặc kệ, bỏ qua mọi rào cản để đến với nhau, dẫn đến kết quả là đạt được ước nguyện tình duyên. Qua 10 câu ca dao dẫn ra trên đây, thấy khi yêu nhau mãnh liệt, các đôi trai gái đã vận dụng mọi biện pháp để đạt được nguyện vọng của mình. Trong họ, giáo lý Khổng Mạnh và những quy định quản lý nghiệt ngã ở làng xã không có tác dụng khống chế hoặc dẫn dắt hướng ứng xử, mà chỉ có tiếng gọi của tình yêu (mặc dù có khi giáo lý này được gọi tên ra). Và cũng chính tình yêu đã dẫn đến hôn nhân - người con gái “lạy mẹ” để đi “lấy chồng”, không những lạy cha mẹ, mà họ còn lạy chú bác, họ hàng, làng xóm, họ nhờ bất cứ ai có thể nhờ được trong việc xe duyên cho họ, cho đến khi cha mẹ “cũng phải theo”, còn không thì họ “cắp quách nhau đi”, (và quyết liệt hơn, trong Kho tàng ca dao xứ Nghệ còn có câu: "Cha mẹ dù có chặt chân chặt tay/Khoét mặt, khoét mày cũng trốn theo anh.")

Không những thế, họ còn nêu lên triết lý là “Theo đôi, theo lứa mới thành thất gia.” Đây là cách lập luận mang tính duy vật, phù hợp với quy luật của tự nhiên, của xã hội, là một đòn tấn công vào lễ giáo phong kiến bắt con người phải thành thất gia mà không cần biết có thương yêu nhau hay không. Cũng vì dựa trên lập luận vững chắc như thế, những đôi trai gái Việt xưa đã đi đến được hôn nhân trong tình yêu, và người phụ nữ được theo chồng (có 23 trường hợp nói rõ kết quả của tốt đẹp ấy, như đi lấy chồng, cắp nhau đi, gửi thân cho nhau, theo chồng, lôi nhau về). Đáng lưu ý là khái niệm theo chồng cuả dân gian không trùng khớp khái niệm tòng phu của triết thuyết Nho giáo - theo chồng vì thương, vì đạo nghĩa là chính chứ không phải vì phục tòng (nội dung Đạo thương chồng, Tình và nghĩa vợ chồng đã được đề cập trong mục Quan hệ vợ chồng). Như thế, nhận định của Nguyễn Bách Khoa về hôn nhân trong chế độ phong kiến Việt Nam thể hiện qua ca dao: "Đã trót yêu nhau mà gặp sự ngăn trở của cha mẹ thì chỉ còn một cách là lìa nhau cho tròn chữ hiếu. Ở những trường hợp ấy thì trai gái đều phải phục tòng gia đình, nhưng trong lòng họ hậm hực lắm." [53:126] là nhận định không chính xác.

4.3. Nam nữ cư xử theo lẽ thường tình.

Qua 36 câu ca dao phản anh về hôn nhân thể hiện cách cư xử theo lẽ thường tình, không bị trói buộc bởi triết thuyết, lễ giáo nào, chúng tôi thống kê thành 29 tình huống như sau:

TÌNH HUỐNG

CHA MẸ

CON

KẾT CỤC

Yêu nhau

Chưa rõ

Ngại ngùng

Chờ ý cha mẹ

Yêu nhau

 

Đợi quyền cha mẹ

 

Muốn trao duyên

 

Sợ lòng mẹ cha

 

Lựa chọn tình hiếu

 

Lưỡng lự

 

Lựa chọn chồng

Chưa rõ

Hỏi mẹ cha

 

Muốn làm quen

 

Sợ bác mẹ

 

Yêu nhau

Chưa rõ

Sợ mẹ thầy

 

Yêu nhau

 

Hỏi có nghĩ đến cha mẹ mình không

 

Lựa chọn

Ngăn cấm

Lưỡng lự

Day dứt

Lựa chọn

Chưa rõ

Lưỡng lự

Day dứt

Lấy chồng

 

Nghĩ cách đền ơn

 

Lựa chọn (2)

 

Thương cha mẹ, lo duyên

Day dứt

Gả chồng

 

Lo xa nhà

 

Lựa chọn

Chưa rõ

Băn khoăn

Chờ ý cha mẹ

Yêu nhau

 

Băn khoăn

Bỏ đi theo chồng

Lựa chọn

Kêu gọi

Nghe cả hai

Dùng dằng

Được hỏi làm vợ

 

Nghĩ đến hiếu trung

Bảo về

Có người tỏ tình (3)

 

Nghĩ đến cha mẹ

Không tự tình

Chờ đợi

 

Nuôi phụ mẫu

Không sợ già

Chờ đợi

 

Đền hiếu trung

 

Có người tỏ tình

 

Dò ý cha mẹ

Bảo chờ

Bị thách cưới

Thách cưới

Đáp ứng

 

Được tỏ tình

 

Chờ ý cha mẹ

Bảo chờ

Yêu nhau

 

Nhớ công ơn cha mẹ

Cúi luồn cha mẹ

Chưa chồng

 

Nhớ công ơn cha mẹ

ở vậy lo phận con

Yêu nhau

 

Chờ lệnh mẹ cha

Cùng chờ

Có người tỏ tình

 

Để tang cha mẹ

Không đáp lại

Có người tỏ tình

 

Nhớ nghĩa vụ với cha mẹ

Không sợ lỡ duyên

Để tang cha mẹ

 

Hỏi có chờ không

 

 

Sau đây là một số câu ca dao tiêu biểu:

1. Ơn hoài thai như biển

Ngãi dưỡng dục, tợ sông

Em nguyền ở vậy phòng không

Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.

2. Ơn thầy bằng núi, nghĩa mẹ tày non

Hai ta là đạo làm con

Muốn duyên vừa ý đẹp phải cúi luồn mẹ cha.

3. Chớ lo nốc nát, ván hà

Gắng thân nuôi phụ mẫu, duyên già có anh.

4. Phụ mẫu sơ sanh, hãy để người định

Trong việc vợ chồng, phải chờ lịnh mẹ cha

- Đợi lịnh mẹ cha, anh đây cũng biết vậy

Nhưng em phải hứa chắc một lời, anh sẽ cậy mai dong.

5.. Thuyền em lựa bến cắm sào

Em chờ phụ mẫu định nơi nào sẽ hay.

6. Lênh đênh nửa nước nửa dầu

Nửa thương cha mẹ nửa sầu căn duyên.

Điều đáng quan tâm là trong loại tình huống thể hiện sự cư xử theo lẽ thường tình của con  trước việc hôn nhân, là trạng thái yêucó tần số thấp hơn các loại tình huống nói ở các mục trên - có 28 tình huống thì chỉ có 7 tình huống thể hiện tình yêu đã nảy nở giữa các đôi trai gái, còn đa số thể hiện tình trạng mới chớm nở của tình yêu (21 trường hợp phản ánh tình trạng mới làm quen, mới được tỏ tình, đang lựa chọn đối tượng…), còn thái độ của cha mẹ hầu hết trong các trường hợp là chưa rõ (26 trong tổng số 29 tình huống). Người bộc lộ suy nghĩ trong các tình huống nói trên chủ yếu là con  - họ nghĩ về sự phản ứng của cha mẹ nếu biết được ý định tiến tới hôn nhân của họ. Nhìn chung, họ sợ cha mẹ không đồng tình thì ít (4 trường hợp) mà đợi ý mẹ cha thì nhiều (7 trường hợp), hơn nữa, họ nghĩ đến trách nhiệm của con đối với cha mẹ là nhiều hơn cả (11 trường hợp). Trong 6 câu ca dao trích dẫn trên đây, thấy nổi bật là trách nhiệm của con  đối với cha mẹ, trong đó, con  lo đến việc đền đáp công ơn cha mẹ và chờ ý kiến cha mẹ rồi mới tính đến hôn nhân. Đặc biệt trong câu thứ ba, đã nói lên một cách mộc mạc mà sâu sắc sự tự giác, thấu tình đạt lý của người nông dân về quan hệ giữa tình và hiếu: cứ lo cho cha mẹ, dù “duyên già” thì đã "có anh". Đó là cách thức ứng xử phù hợp với truyền thống kính trọng mẹ cha của dân tộc. Trong trường hợp bị chi phối bởi bên tình bên hiếu, các đôi trai gái dùng dằng, lưỡng lự. Điều đó cũng cho thấy họ sống theo lẽ thường tình, không bị chi phối quá mạnh mẽ bởi học thuyết Nho giáo, bởi vì Nho giáo quy định rằng con phải nghe lời cha, cha bảo chết mà không chết là bất hiếu. Sự dùng dằng, lưỡng lự “nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên”, “Mẹ kêu khốn tới, thương chồng khốn lui” cho thấy rằng cái có sức chi phối họ chủ yếu là cái tình chứ không phải là cái lý.

4.4. Tính dân chủ trong hôn nhân.

Giá trị đích thực của hôn nhân phải được xuất phát từ tình yêu gái trai, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, sang giầu, tôn giáo, cũng như thành phần xuất thân. Tiến tới hôn nhân là quyền lựa chọn của đôi trai gái. Một khía cạnh của dân chủ trong hôn nhân được biểu hiện ở sự lựa chọn đó. Ca dao là tâm tư tình cảm của người lao động, mà dưới thời phong kiến chủ yếu là người nông dân. Môi trường lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội của những con người đồng cảnh đã nuôi dưỡng tinh thần dân chủ. Tuy nhiên, ý thức hệ của giai cấp thống trị đã ảnh hưởng mạnh vào cơ tầng xã hội và ý thức của người nông dân. Một mặt, họ muốn sống như cuộc sống vốn có của họ, mặt khác, họ lại muốn lấy mô thức của giai cấp thống trị họ làm cái đích để hướng tới. Do vậy, ca dao có cả mặt tiêu cực và tích cực của ý thức hệ thống trị và bị trị. Có điều, liều lượng của hai loại này ẩn chứa trong đó là bao nhiêu, khó có thể đo đếm được. Ta thử xem tính dân chủ trong hôn nhân được thể hiện qua 6 câu ca dao dưới đây:

1. Đôi ta như ngọn nhang trần

Không cha không mẹ muôn phần cậy ai?

2. Mỗi năm mỗi thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con

Người còn thì của cũng còn

Để người ban bảo vuông tròn nhân duyên.

3. Sông Thanh nước chảy lờ đờ

Con đi lấy chồng, mẹ biết nhờ ai?

4. Xiết bao bú mớm bù chì

Đến khi con lớn con đi lấy chồng

Có con đỡ gánh đỡ gồng

Con đi lấy chồng, vai gánh tay mang!

5. Khi đi mẹ đã dặn rồi

Đi thì đi một về đôi mẹ mừng.

6. Trách cha, trách mẹ em lầm

Cho nên em phải khóc thầm hôm mai

Trách chàng chẳng dám trách ai

Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơm.

Câu ca dao thứ nhất và thứ hai cho thấy rằng trong quan niệm của người Việt xưa, không phải lúc nào cha mẹ cũng là rào cản của con trong chuyện hôn nhân. Rõ ràng, cha mẹ là chỗ để con nhờ cậy, nhờ cha mẹ ban bảo thì nhân duyên mới được vuông tròn, có nghĩa là chính cha mẹ không những là người nuôi dạy mà còn là người tác thành cho đôi lứa. Câu ca dao thứ ba và tư cho thấy sự hẫng hụt của cha mẹ khi con đi lấy chồng, và lúc này, người phải cam chịu là cha mẹ chứ không phải là con. Người mẹ ngẩn ngơ nhìn con theo chồng, chỉ còn than thở “biết ở với ai!”, và  xác định ngay cách sống phù hợp là tự lực nuôi sống bản thân “vai gánh, tay mang”. Đến câu thứ năm, tính dân chủ trong quan niệm về hôn nhân của người Việt xưa đã thể hiện rất rõ. Câu ca dao này gợi nên hình ảnh một người mẹ nhân từ, khi thấy con đi xa về vẫn không cùng ai, đã mỉm cười hiền hậu mà trách nhẹ về sự không về đôi cuả con. Như vậy là, ngay trong lòng chế độ phong kiến, người nông dân đã có quan niệm tự do lựa chọn hôn nhân, sự lựa chọn ấy thuộc về con, trái ngược hẳn với quan niệm của lễ giáo phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Quyền tự do hôn nhân có trường hợp được mở đến vô cùng! Câu ca dao cuối cùng thoạt nghe tưởng rằng cha mẹ đã can thiệp thô bạo vào chuyện tình duyên cuả con, nhưng đọc kỹ mới thấy rằng chính người con trai đã mượn thành kiến về vai trò của cha mẹ trong chế độ phong kiến để đổ lỗi cho cha mẹ, khi chính bản thân mình mới là người phụ tình. Anh chàng láu lỉnh ấy mặc dù đã đem bức bình phong của lễ giáo phong kiến ra che chắn, vẫn không qua được đôi mắt tinh tường của người con gái để rồi được vạch mặt một cách tinh tế: anh mới là người chê hoa nhài không thơm, anh mới là người tự chặt đứt duyên tình!

Chúng ta có thể đặt câu hỏi vì sao ngay trong lòng xã hội phong kiến với những giáo lý khắt khe, quan niệm và cách ứng xử trên bình diện hôn nhân thể hiện qua ca dao lại đa chiều, trong đó có những yếu tố dân chủ như vậy? Có thể tìm thấy câu trả lời khi xem xét hoàn cảnh xã hội mà trong đó ca dao ra đời và được lưu truyền đến ngày nay. Nho giáo hay lễ giáo phong kiến dù có hàng ngàn năm thống trị, vẫn không thể lan toả vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, trong đó, nông thôn là địa hạt còn bị bỏ ngỏ nhiều. Đó là vì nông thôn Việt Nam có một cơ cấu xã hội đặc thù, một cơ cấu mà trong đó làng tồn tại có tính độc lập tương đối, có phong tục tập quán được lưu truyền từ lâu đời, là tấm rào cản làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai (như Nho giáo từ phương Bắc sang).

Trong thời phong kiến ở Việt Nam, giao thông kém phát triển, phương tiện vận tải cũng như phương tiện truyền thông còn thô sơ, cho nên giao tiếp với thành thị thì khó, mà giao tiếp trong nội bộ làng quê lại thật dễ dàng. Đàn ông, đàn bà không bị phân biệt sâu sắc về phân công lao động, về các nguyên tắc của lễ giáo phong kiến, cho nên nguyên tắc thụ thụ bất thân khó mà vận hành được ở đây. Họ cùng lao động, đặc biệt là lao động trong một môi trường phóng khoáng là đồng ruộng, thì sự gặp gỡ, giao duyên để đi tới tình yêu và hôn nhân là điều không khó. Cộng vào đó, các sinh hoạt hội hè, đình đám, các đêm xem diễn chèo ở đình làng... đều là điều kiện thuận lợi cho nam nữ gặp gỡ, giao duyên. Ca dao chủ yếu phát sinh từ nông thôn, cho nên phản ánh chân thật về tình yêu, hôn nhân theo cái phóng khoáng của thôn quê cũng là lẽ tất yếu. Thật vậy, theo chúng tôi thống kê, trong số 11.825 đơn vị ca dao, có tới 5.682 đơn vị nói về giao duyên nam nữ. Họ giao duyên trong môi trường rộng mở của đồng ruộng, của bờ sông, bãi dâu, của giếng nước, đầu đình… Thống kê qua 6.862 đơn vị ca dao về giao duyên nam nữ và về gia đình, chúng tôi thấy có 4.383 lượt đơn vị có chứa các từ chỉ khung cảnh nông thôn bình yên với những cánh cò, đàn chim, cây đa, bến nước, con đò, cây, hoa lá… (94 đơn vị có từ ruộng, đồng, 123 đơn vị có từ vườn, 653 đơn vị có từ thuyền, đò, bến, 494 đơn vị có từ sông, 93 đơn vị có từ đình, chùa, 36 đơn vị có từ cây đa, 1.452 đơn vị có từ lá, cây, cành, hoa, quả, tre, trúc, 385 đơn vị có từ trầu, cau, 74 đơn vị có từ lúa, thóc, 387 đơn vị có từ chim, cò, 82 đơn vị có từ trâu, bò, 320 đơn vị có từ cá). Có nghĩa là khung cảnh phổ biến mà trong đó nảy nở duyên tình, dẫn đến hôn nhân của các đôi trai gái được phản ánh trong ca dao là thiên nhiên, một thiên nhiên thuần khiết của nông thôn, không bị chi phối bởi những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe nào, nó tạo điều kiện cho con người sống cởi mở, chân thành với tình cảm dào dạt. Số lượng từ khá lớn về thiên nhiên nói trên cũng đồng thời cho ta thấy cuộc sống của người Việt xưa chính là một cuộc sống nông nghiệp trồng lúa nước gắn với sông nước, đồng ruộng. Có điều, trong khi sử dụng nhữug từ “thuần nông” như trên để diễn tả tình yêu lứa đôi, các tác giả dân gian đã thi vị hoá và phi vật chất hoá nghĩa của chúng, khiến chúng vừa gần gũi với cuộc sống của người nông dân, vừa bay bổng lên trong tình yêu và khát vọng hạnh phúc của con người. Chẳng hạn, từ cá, được xuất hiện tới 320 lần, nhưng hầu như không lần nào mang ý nghĩa vật chất, diễn tả một thứ thức ăn phổ biến của người nông dân vùng sông nước, mà chủ yếu là phương tiện biểu đạt cho tình cảm con người. Có thể nhặt ra bất cứ câu ca dao nào trong số 320 câu vừa nói trên để chứng minh điều này, ví dụ như:

1. Công anh xe chỉ uốn cần

Vì chưng trời động con cá lần ra khơi.

2. Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ

Đêm đêm hướng dải Ngân Hà

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

3. Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng rồi anh tiếc em thay

Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như cá mắc câu

Cá mắc câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra.

4. Ai làm cá bống đi tu

Cá thu nó khóc, cá lóc nó rầu

Luỵ rơi hột hột, cơ cầu lắm bớ em!

5. Anh đừng thấy cá phụ canh

Thấy toà nhà ngói, phụ tranh rừng già.

Qua 5 câu ca dao trên đây, đã đủ thấy cách sử dụng từ cá(cũng như các từ chỉ vật chất khác)linh hoạt và uyển chuyển như thế nào - lúc thì tượng trưng cho người con gái vừa tuột khỏi tầm tay người con trai, lúc lại tượng trưng cho nỗi buồn man mác của một người đang yêu mà phải xa người yêu, lúc lại là biểu tượng cho sự chung thuỷ, không thay lòng đổi dạ… Mặt khác, cách thức diễn đạt xuất phát từ trực quan sinh động ấy cũng biểu hiện cho lối tư duy thuần phác của người nông dân, thứ tư duy không bị trói buộc bởi những triết thuyết hoặc lễ giáo khắt khe trong xã hội phong kiến mà xuất phát từ thực tiễn sinh động trong cuộc sống hàng ngày ở nông thôn.

Đứng về mặt tác giả của những ca dao nói chung và ca dao về hôn nhân nói riêng, chúng ta thấy cũng có sự đa dạng. Tuy nhìn chung thì đó là tác giả tập thể, thế nhưng nếu tìm về ngọn nguồn thì thấy từng câu ca dao đều phải được sáng tác và phát ngôn bởi một người cụ thể, trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Ca dao chủ yếu phát nguồn từ nông thôn, trong khung cảnh giao duyên nam nữ và khung cảnh lao động hoặc hội hè là chính, với tác giả chủ yếu là những người sống tại nông thôn. Trong số họ, có người là nông dân, có người là nhà nho (đang học để đi thi, thi không đỗ, cáo quan về “vườn”, thầy đồ - hương sư). Chính những nhà nho này góp phần quan trọng chuyển tải tư tưởng Nho giáo về nông thôn, phổ biến nó trong học sinh, và khi họ tham gia sáng tạo ca dao thì họ cũng chuyển tải quan điểm Nho giáo vào nội dung ca dao. Tuy vậy, do ký thác cả cuộc sống trong làng quê, các nhà nho sống ở nông thôn vừa chịu ảnh hưởng của Nho giáo, vừa có cái nhìn thực tế, cho nên, trong ca dao về hôn nhân, gia đình mới có sự đa chiều về quan niệm như vậy, mà chiếm ưu thế là chiều đi theo tiếng gọi mạnh mẽ của tình yêu chân chính nảy sinh trong lao động, trong môi trường thiên nhiên trong lành của người Việt. Qua ca dao, thấy rõ rằng trong cuộc sống của người Việt xưa, tình yêu làm cơ sở cho hôn nhân, tạo lập gia đình hạnh phúc.

TIỂU KẾT

Chúng tôi đã khảo cứu ca dao về gia đình trên những quan hệ chính là vợ chồng, cha mẹ con, nàng dâu - nhà chồng. Do ca dao phản ánh ít về quan hệ anh chị em cho nên chúng tôi không khảo cứu nội dung này. Mặt khác, qua các mối quan hệ, ca dao đã phản ánh một cách sinh động quan niệm dân gian trên một số vấn đề như đạo hiếu, đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt, hôn nhân, cho nên chúng tôi đi sâu khảo cứu những vấn đề này, tìm ra được một số nét đặc trưng trong nhận thức và cách thức ứng xử của người Việt trong cuộc sống gia đình.

Về quan hệ vợ chồng: Đặc trưng cơ bản của quan hệ vợ chồng người Việt thể hiện qua ca dao là gắn bó, với những biểu hiện chính là: theo nhau, gắn bó trong lao động, càng xa cách càng gắn bó. Nét đặc thù của sự gắn bó vợ chồng người Việt là theo nhau. Khái niệm tòng phu của Nho giáo ở Việt Nam không được hiểu một cách bó hẹp, cứng nhắc, mà được mở rộng, mềm mại, chuyển hoá thành vợ chồng theo nhau. Chính sự theo nhau của vợ chồng người Việt thể hiện quan niệm và cách thức ứng xử dân chủ, mềm mại của người nông dân thuần phác, chứng minh rằng gia đình người Việt tuy sống trong chế độ phụ quyền, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, nhưng không rập khuôn theo đạo lý phong kiến, mà đa dạng, phong phú, mang tính dân chủ và tính nhân văn sâu sắc.

Về các khái niệm của Nho giáo được vận dụng trong ca dao về gia đình: Các từ đạo nghĩa, ông Tơ bà Nguyệt có tần số xuất hiện khá cao trong ca dao chứng tỏ Nho giáo đã có ảnh hưởng khá rộng trong dân gian. Tuy vậy, nội dung của các khái niệm này được thể hiện qua ca dao lại không gần gũi với nội hàm nguyên gốc Hán, mà chứa đựng những ý nghĩa phù hợp với tâm thức dân tộc, một dân tộc có truyền thống nhân ái, coi trọng nghĩa tình, gắn bó với nhau trong lao động, gần gũi và hoà đồng với thiên nhiên.Điều đó chứng tỏ trong cách tiếp thu Nho giáo, người Việt đã chuyển hoá nội dung cho phù hợp với điều kiện sống và tập tục của dân tộc, có nhiều trường hợp chỉ còn dùng vỏ ngôn ngữ của các khái niệm thuộc giáo lý nhà Nho để chuyển tải những nội dung gần gũi với cuộc sống bình thường ở nông thôn.

Về quan hệ cha mẹ con: Ca dao nói nhiều đến đạo hiếu, với những nội dung gần với những nội dung mà Nho giáo đề cập. Tuy vậy, đó không phải là những giáo lí khô cứng, cao siêu theo triết thuyết Nho giáo mà gắn với đời sống thường ngày, đề cao cách thức ứng xử hướng về cội nguồn, tôn trọng và kính yêu cha mẹ theo truyền thống của cư dân vùng Đông Nam Á vốn coi trọng tổ tiên. Ảnh hưởng rõ nhất của Nho giáo vào gia đình người Việt là coi trọng việc học hành, nhằm dương danh hiển thân. Qua ca dao thấy rõ điều này: cha mẹ coi trọng việc cho con theo học, đi thi và đỗ đạt. Những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ cha mẹ con mà ca dao phản ánh và phê phán là con đối xử không tốt đối với cha mẹ.

Về quan hệ nàng dâu và gia đình chồng: Số lượng câu ca dao nói về những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ nàng dâu - nhà chồng nhiều gấp 2,35 lần số câu nói về những biểu hiện tích cực, cho thấy đây là mâu thuẫn đáng quan tâm khắc phục nhất trong gia đình người Việt. Nói cách khác, mâu thuẫn nàng dâu - nhà chồng là điểm yếu nhất trong quan hệ gia đình của người Việt. Mâu thuẫn nàng dâu - mẹ chồng diễn ra gay gắt trên nhiều bình diện, mà nguyên nhân chính thuộc về yếu tố kinh tế và yếu tố tâm lý, đồng thời có yếu tố Nho giáo.

Quan niệm về hôn nhân: Người Việt có quan niệm đa chiều về hôn nhân, trong đó có chiều tiêu cực là chịu sự ràng buộc thái quá của lễ giáo phong kiến, nhưng chiều nổi bật, tích cực là quan niệm dân chủ, nhân văn. Chính vì thế, vượt qua mọi sự áp chế của chế độ phong kiến, người Việt đã tìm thấy hạnh phúc trong hôn nhân, từ đó xây dựng được một mẫu hình gia đình gắn bó, hoà thuận trong lao động, trong môi trường nông thôn thanh bình tuy lao động nặng nhọc và vật chất thiếu thốn. Nguyên nhân của tình hình này là người Việt sống trong môi trường nông thôn có một thiết chế tương đối khép kín là làng, với phong tục tập quán được lưu truyền từ lâu đời, là tấm rào cản làm giảm bớt sự thâm nhập của những triết thuyết và lối sống ngoại lai. Mặt khác, tình yêu nảy nở trong khung cảnh thiên nhiên hiền hoà, trong các dịp lễ hội thắm tình làng nghĩa xóm, trong lao động trên đồng ruộng phóng khoáng, trong sinh hoạt hội hè đình đám mang tính dân chủ làng xã là điều kiện khiến cho các đôi trai gái nông thôn tiến tới hôn nhân một cách hồn nhiên và mộc mạc, từ đó xây dựng được gia đình trên một cái nền vững chắc của làng quê với những phong tục tập quán tốt đẹp. Chúng tôi nhận thấy ý kiến nói rằng trong xã hội phong kiến, hôn nhân chỉ là kết quả của sự cưỡng ép của cha mẹ đối với con, hôn nhân không đem lại hạnh phúc cho con người là thiếu toàn diện.

Từ các mối quan hệ trong gia đình và cách thức ứng xử của các đôi trai gái trước tình yêu và hôn nhân, giữa bên tình và bên hiếu, thấy nổi bật lên vấn đề số phận cá nhân trong mối tương quan với gia đình và trách nhiệm của từng cá nhân trong gia đình của mình. Bao trùm, là trách nhiệm cao của từng cá nhân với tư cách thành viên của gia đình với gia đình. Mỗi cá nhân đều phải ý thức rõ vai trò của mình trong gia đình và thực hiện tốt vai trò ấy. Cha mẹ phải ăn ở có đức, phải hy sinh, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Con cái phải biết ơn và có trách nhiệm với cha mẹ. Vợ phải theo chồng, gánh vác giang sơn nhà chồng. Chồng phải biết đến công lao của vợ, phải chung lưng đấu cật với vợ. Như thế, ý thức về gia đình mang ý nghĩa bao trùm, chi phối mọi hành động của từng cá nhân trong gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, từng cá nhân, nhất là người ở bậc dưới, phải chịu hy sinh hoặc nhường nhịn, người ở bậc trên phải bao dung, khoan hoà. Tuy vậy, sự nhường nhịn hay hy sinh ấy không bao trùm toàn bộ cuộc sống gia đình, không thủ tiêu hết vai trò cá nhân, làm cho từng cá thể tan biến trong gia đình. Thực ra, mỗi cá thể vẫn tồn tại tương đối độc lập trong gia đình, và một khi quyền lợi của cá nhân bị đe doạ hay một khi khát vọng hạnh phúc cá nhân đã cháy bỏng, thì cá nhân ấy sẵn sàng phá bung mọi lễ giáo, mọi mối ràng buộc để xây dựng hạnh phúc cho riêng mình. Tiêu biểu cho tình trạng này là sự bung phá của con cái khi tình yêu và hôn nhân bị đe doạ. Lúc này, con người cá nhân đã thắng thế, tự mình thoát khỏi mọi mối ràng buộc của lễ giáo nhằm thoả mãn khát vọng hạnh phúc của mình, để rồi khi đạt được ước nguyện, họ lại trở về với cuộc sống bình yên trong gia đình. Con người cá nhân trong văn học dân gian người Việt không nổi loạn, không đạp đổ toàn bộ các mối ràng buộc để khẳng định một cách tuyệt đối cá nhân mình như kiểu con người cá nhân trong văn học phương Tây, mà biết tự điều tiết ở một mức độ vừa phải, đủ để đem lại hạnh phúc cho mình mà không làm tan vỡ các mối quan hệ khác.