Văn hoá Đông Sơn – Nền tảng của văn hoá Việt cổ

Văn hoá Đông Sơn được coi là thời kỳ rực rỡ của nền văn hoá Việt cổ. Từ nền văn hoá này, người Việt cổ đã chất riêng, bản địa cho mình. Trên cơ sở đó thành lập nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, sau đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương.

van-hoa-dong-son-1630250170.jpgẢnh interet

Theo tài liệu sử học, Văn hoá Đông Sơn kéo dài trên phạm vi rộng tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam: Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Hà Nam , Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Có ghi chép cho rằng, nền văn hoá cổ này có được tìm thấy ở một số vùng lân cận Việt Nam như ở Vân Nam, Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc, ở Lào hay ở Thái Lan...

Văn hoá Đông Sơn xuất hiện vào khoảng 800 năm trước công nguyên. Thời kỳ này đã kế thừa của các nền Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun.

Theo tác giả Phương Hà, TS Nguyễn Văn Đoàn - Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cho biết, văn hóa Đông Sơn có vị trí vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc, và là nền tảng vật chất đối với sự hình thành bản sắc văn hóa Việt cổ cũng như văn minh Đại Việt sau này. Những năm gần đây, việc điều tra, phát hiện mới và khai quật hàng loạt các di tích văn hóa Đông Sơn như các di tích như Mả Tre, Đình Tràng (Cổ Loa, Hà Nội), Bãi Cọi (Hà Tĩnh), các di tích tiền Đông Sơn như Xóm Dền (Phú Thọ), Nghĩa Lập (Vĩnh Phúc) với sự hợp tác của các chuyên gia nước ngoài đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa sự đa dạng, sự thống nhất cũng như mối quan hệ, giao lưu và vị thế của văn hóa Đông Sơn với các văn hóa đồng đại khu vực lân cận.

Các nhà khoa học cũng đã xây dựng đầy đủ các phông tư liệu về văn hóa Đông Sơn với các lát cắt phản ánh các phương diện khác nhau về văn hóa Đông Sơn, về đời sống cư dân Việt cổ qua các hình thức cư trú và nhà ở, các phương thức mai táng, đời sống tinh thần, đời sống sản xuất... Trên cơ sở nghiên cứu về văn hóa Đông Sơn, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, văn hóa Đông Sơn chính là cơ sở vật chất và là sự thể hiện sinh động “hình ảnh” của nhà nước đầu tiên trong lịch sử: Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.

Theo PGS. Trình Năng Chung, những cuộc khai quật Đông Sơn đầu tiên được tiến hành từ năm 1924 đến năm 1932 dưới sự điều khiển của Pajot. L, một viên chức thuế quan và cũng là người sưu tầm cổ vật ở Thanh Hoá. Kết quả của những cuộc khai quật này được Goloubew.V, một học giả Trường Viễn Đông Bác cổ, mệnh danh là: “Thời đại đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ” để xác định nội dung của văn hoá khảo cổ mới được khám phá này. Những phát hiện ở Đông Sơn gây sự chú ý của các học giả nghiên cứu trong khu vực. Năm 1934, Heine Geldern R, nhà khảo cổ học người Áo, đã đề nghị gọi thời kỳ đó là “Văn hóa Đông Sơn”.

PGS. Trình Năng Chung  cũng cho rằng, mặc dù thuật ngữ “Văn hóa Đông Sơn” do Heine Geldern đưa ra nhanh chóng được thừa nhận và sử dụng rộng rãi, nhưng nội dung văn hóa này lại được diễn giải theo nhiều cách khác nhau trong giới tiền sử học đương thời. Có một thời gian dài các học giả chia sẻ với Heine Geldern khi cho rằng văn hóa Đông Sơn là đại diện cho tất cả các văn hóa thời đại đồng thau ở vùng Vân Nam và Đông Nam Á. Về niên đại của nền văn hóa Đông Sơn cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Heine Geldern cho niên đại mở đầu của văn hóa Đông Sơn vào khoảng thế kỷ VIII-VII tr CN, trong khi Karlgren thì xếp vào khoảng thế kỷ IV-III tr CN. Goloubew cho rằng, thời đại kết thúc của văn hóa Đông Sơn vào khoảng thời Hán.

Tác giả Đặng Đình Thuận cho biế, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh Sông Hồng của người Việt cổ thời kỳ Hùng Vương dựng nước Văn Lang đã trở thành biểu tượng thiêng liêng của nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Hình ảnh trống đồng không chỉ là bảo vật quý báu của văn hoá Việt Nam mà còn là điểm hội tụ hồn thiêng sông núi được hình thành từ thời Hùng Vương dựng nước và được tích tụ tinh hoa dân tộc trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh quang vinh. Những chiếc trống đồng Đông Sơn được phát hiện trên khắp lãnh thổ của nước Việt Nam đã chứng minh hùng hồn điều đó. Trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiếc trống đồng đã là văn vật tượng trưng cho tinh hoa văn hoá cũng như ý chí quật cường của dân tộc ta.

Trong những nghi lễ trang nghiêm cũng như dịp hội hè vui vẻ, tiếng trống đồng trầm hùng vang vọng tạo ra một không khí uy nghi, làm tăng lòng tự hào dân tộc và làm cho sứ thần của nhà Nguyên là Trần Phu khi đặt chân đến đất Thăng Long, nghe thấy tiếng trống đồng: " Kim qua ảnh lý đan tâm khổ; Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh" ( Sợ run khi thấy gươm lòa sáng; Tóc bạc vì nghe tiếng trống đồng) Quê hương của trống đồng Đông Sơn là vùng Đất Tổ trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn đã tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đến thế kỷ 6 sau Công Nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.

Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, đã tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa của người Việt, tạo nên nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất ở Đông Nam châu Á. Những chiếc trống đồng Đông sơn chính là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ và toả sáng trên lưu vực của sông Hồng- Con sông Cái của Đất Mẹ Việt Nam- Nơi khai sinh ra dân tộc và đất nước Việt Nam hôm nay.