Cuộc trường chinh của danh tướng đánh mại 10 tướng tài của hai cường quốc hàng đầu thế giới

Nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta cùng đến với bài viết "Cuộc trường chinh của danh tướng đánh mại 10 tướng tài của hai cường quốc hàng đầu thế giới" của TS. Lê Thành Ý.

Các nhà sử học viết nhiều về quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chỉ đường đi nước bước cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã dạy ông đạo đức của người làm tướng. Giới quân sự nghiên cứu sâu về nhãn quan chiến lược và bản lĩnh cầm quân của một thiên tài thao lược, đã đánh bại 10 đại tướng của 2 đế quốc to. Nhiều ký giả đã tìm hiểu về cuộc sống đời thường của vị tướng tuổi cao nhưng vẫn minh mẫn, sáng sáng kiên trì ngồi thiền, chiều đi bộ trong vườn, ngày ngày làm việc, đọc sách báo, chơi đàn và vui cùng đàn cháu nhỏ…Dựa vào lời của bà cụ thân sinh và kết quả đối chiếu giữa “ngày ta” và “ngày tây” người ta khẳng định vị tướng huyền thoại này sinh ngày 25 tháng 8 năm Tân Hợi (1911). Thế là có một sự trùng hợp lạ kỳ, 1911 là năm Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Vào ngày đặt chân lên cảng Đoongkéc (nước Pháp) với cái tên Văn Ba; Người không hề biết, đúng vào ngày này, ở Tổ quốc một người mới chào đời và chính con người ấy, đúng 30 năm sau lại trở thành trợ thủ đắc lực của mình. Nhiều nhà nghiên cứu khá thích thú khi phát hiện sự hoán vị ngẫu nhiên, Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 và ông được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5.

t1-1630295419.jpgLễ xuất phát của đội Việt nam Tuyên truyền Giải phóng quân

Theo ngôn ngữ quân đội, 28 tháng 5 năm1948 chỉ là chính quy hoá” ngày Bác Hồ quyết định “giao cho chú Văn lập Đội Quân giải phóng” vào cuối năm 1944. Ngày đó, cùng với  việc “chọn mặt gửi vàng” là những lời giáo huấn mang tính kim chỉ Nam để Đội Quân giải phóng tồn tại, phát triển và chiến thắng, đó là  Có Đảng lãnh đạo, dựa chắc vào dân, đoàn kết kỷ luật. Nắm chắc “cẩm nang” này trong cả cuộc đời cầm quân, Tướng Giáp đã dẫn dắt “đội quân thơ ấu” lớn lên nhanh chóng; chuẩn bị và thực hành vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền, rồi kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi. Trong cuộc trường chinh 30 năm ấy (1945-1975), đội quân cách mạng khởi đầu từ súng trường chân đất đã buộc 10 đại tướng của 2 cường quốc (7 Pháp và 3 Mỹ) phải thay nhau hứng chịu thất bại đắng cay trên mảnh đất này.

Những bại tướng Pháp trước thiên tài quân sự của tướng Giáp

Tháng Tám năm 1945, ngày ông Giáp vâng lệnh Cụ Hồ xuất quân từ Tân Trào về giải phóng Thái Nguyên cũng là ngày Tổng thống Đờ Gôn (Charles de Gaulle) cử viên tướng bốn sao Lơcle (Philippe Leclerc) cầm đầu quân viễn chinh Pháp sang tái chiếm Đông Dương. Từ tháng 9 năm ấy, Lơcle trở thành đối thủ đầu tiên của ông Giáp, khi đó là Chủ tịch Quân sự Uỷ viên hội kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền cách mạng vừa được thành lập.

Cuối tháng 2 năm1946, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Lơcle vội vàng tuyên bố: giai đoạn đánh chiếm đã xong, quân Pháp bắt đầu chuyển sang giai đoạn bình định và chuẩn bị tiến ra Bắc. Song có điều vô cùng quan trọng mà ngày đó tướng lĩnh Pháp đã không đánh giá đúng đó là, quân ta mất đất, nhưng không mất dân, mà còn dân là còn tất cả. Chỉ 3 ngày sau khi quân Pháp gây hấn Nam Bộ, ngày 26 tháng 9 chuyến tàu đầu tiên đã rời ga Hàng Cỏ, hướng về phương Nam. Cùng với những chiến sĩ ưu tú và vũ khí tốt nhất mà ta có lúc bấy giờ, bài hát Phất cờ Nam tiến mà ông Hoàng Văn Thái sáng tác hồi tiền khởi nghĩa, lại vang lên trong những đoàn tàu tốc hành với lời ca “Cờ giải phóng phất cao mau thẳng tiến, Trời phương Nam dân chúng đang mong chờ….”

Bính Tuất, Tết độc lập đầu tiên, Chủ tịch Quân sự Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp đi kinh lý miền Nam. Trước cục diện chiến trường bất lợi cả về thế và lực, ông chỉ thị cho cán bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên và Nam Trung Bộ không dùng binh lực lớn, dàn thành tuyến ngăn chặn địch mà tổ chức ngay những đơn vị vừa và nhỏ, luồn vào vùng địch kiểm soát, dùng vũ trang tuyên truyền phục hồi cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du kích, động viên nhân dân tham gia chiến đấu tiêu hao sinh lực địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay.

Tháng 7 năm1946, Lơcle bị triệu hồi về Pháp không chỉ vì thất bại, không thực hiện được ý đồ “chinh phục Nam Kỳ trong vòng vài ba tuần lễ”, mà còn vì nội các Pháp đã chuyển sang tay Biđôn, một người chủ chiến. Tướng Lơcle ra đi, chức Tổng Chỉ huy chuyển sang tay Valuy (Etienne Valluy), một người được đánh giá là “có đủ năng lực gánh vác nhiệm vụ đánh bại ông Giáp và quân đội Việt Minh”. Valuy là đối thủ thứ hai của ông Giáp.

Khác với Lơcle, tướng Valuy chủ trương dùng vũ lực “đánh ngay, dứt điểm sớm”. Trung tuần tháng 4 năm 1946, sau khi đưa quân vào Hà Nội theo Hiệp định sơ bộ, Valuy đã chỉ thị cho chỉ huy dưới quyền xây dựng kế hoạch tác chiến, sẵn sàng biến những toan tính quân sự thành “màn đảo chính”. Vừa ngồi vào ghế Tổng Chỉ huy, tháng 7 năm 1946, giữa lúc Cụ Hồ cùng phái đoàn Việt Nam đang đàm phán ở Pháp, Valuy đã cho dựng màn kịch, làm đảo chính ngay tại Hà Nội. Được sự nhất trí của Tổng Bí thư Trường Chinh và quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Quân sự Uỷ viên hội Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo các chiến sĩ an ninh và tự vệ tóm gọn bọn phản động và tay sai cùng toàn bộ tang chứng bạo loạn; phá tan âm mưu đảo chính của Valuy và đồng bọn ngay từ trong trứng nước.

Mùa hè năm 1947, Pari bắt đầu sốt ruột, phái sang cho Valuy một phó tướng “rất am hiểu Đông Dương” đó là Xalăng (Raoul Salan),một sĩ quan cáo già từng làm đồn trưởng Đình Lập (Lạng Sơn) những năm 1925-1930, nói tiếng Tày, Nùng, từng uống rượu cần và hút thuốc phiện.

Dựa vào hiểu biết của Xalăng, những tháng Hè-Thu năm 1947, Bộ Chỉ huy quân đội Pháp đã dồn sức để chuẩn bị một đòn đánh quyết định vào mùa khô. 

Ngày 7 tháng 10 năm 1947, 20.000 quân Pháp hình thành 2 gọng kìm lớn, bao gồm phía Đông là Hà Nội- Lạng Sơn- Cao Bằng, chừng 400 km và phía Tây từ Hà Nội đếnTuyên Quang-Chiêm Hoá, khoảng 250 km, bao vây căn cứ địa kháng chiến, kết hợp cùng quân dù nhảy xuống hòng “bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh và tiêu diệt bộ đội chủ lực”.

Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp  kinh lý Chiêm Hoá trở về Tổng hành dinh,ông  phát hiện chỗ yếu chí tử của địch là, binh lực nhiều nhưng rải ra trên địa bàn rừng núi quá rộng, rất xa đồng bằng, tiếp tế tăng viện khó khăn, Ông báo cáo, đề nghị thay đổi cách đánh; không đem quân chủ lực đối mặt với các mũi tiến công của địch, mà dùng những đơn vị vừa và nhỏ, phục kích trên các trục đường bộ và đường sông, đồng thời đưa một số đại đội chủ lực xuống hoạt động độc lập ở các châu, huyện, với nhiệm vụ chiến đấu tiêu hao sinh lực địch đi đôi với dìu dắt lực lượng vũ trang địa phương,  phát động chiến tranh du kích đánh địch, …Chỉ vài tuần sau khi triển khai theo hướng đường số 4, đường số 3, đường số 2 và sông Lô, hàng vạn quân địch bị dồn vào tình thế khó khăn  do thời tiết thượng du khắc nghiệt, thiếu tiếp tế tăng viện,mặt khác lại luôn bị bất ngờ bởi những đội quân biến hoá khôn lường tiến công.  Sau 75 ngày hành quân vất vả, đội quân xâm lược đã phải rút chạy. Đầu năm 1948, chủ trương phát động chiến tranh du kích đã lan rộng khắp trong cả nước, buộc địch phải phân tán binh lực đối phó ở nhiều nơi, hạn chế khả năng mở rộng phạm vi chiếm đóng và bình định vùng tạm chiếm.

Từ kinh nghiệm chỉ đạo đại đội phân tán hoạt động độc lập ở các châu, huyện trong Chiến dịch Việt Bắc và bài học vận động quần chúng trong thời kỳ chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, Trung ương thống nhất phân tán 1/3 bộ đội chủ lực thành những đại đội độc lập tiến sâu vào vùng tạm bị chiếm, gây dựng lại cơ sở chính trị quần chúng, giúp đỡ cán bộ địa phương tổ chức lực lượng vũ trang bí mật, lập làng chiến đấu, đánh du kích, bảo vệ thôn xóm. Những trận chiến của lực lượng vũ trang phân tán tại chỗ ngày càng phổ biến, đã thu hút một bộ phận quan trọng của binh lực địch, buộc chúng phải thường xuyên phân tán để đối phó, đã đẩy Bộ Chỉ huy Pháp trước nguy cơ khủng hoảng quân số ngày càng trầm trọng. 2/3 bộ đội chủ lực còn lại được duy trì ở quy mô tiểu đoàn tập trung, được rèn luyện theo quy môtừ 2 đến 3 tiểu đoàn, vừa đánh tập trung tiêu hao tiêu diệt địch, vừa rút kinh nghiệm trong thực tế chiến đấu.

Hình thái chiến trường những năm 1948-1950 cho thấy, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp rất coi trọng vai trò chiến lược của chiến tranh du kích, nhưng ông không dừng lại ở “chủ nghĩa du kích” mà đã chủ động kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy từ thấp lên cao. Đại đội độc lập, rồi tiểu đoàn tập trung là phương thức xây dựng lực lượng chưa từng thấy trong kho tàng kinh nghiệm quân sự đông tây, kim cổ, đó cũng là cách dùng binh riêng của Việt Nam, một sáng tạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhằm tạo thế “kiềng ba chân” vững chắc của lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích). Bằng biện pháp chiến lược này, tướng Giáp đã thực hiện được chiến tranh du kích lại vừa duy trì được sự kết hợp thường xuyên giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy.

Chiếm đóng miền núi không được, làm chủ trung du và đồng bằng không xong, Tướng Valuy bị triệu hồi về nước; Tướng Bledô (C. Blaizot) sang thay và trở thành đối thủ thứ ba của ông. Đúng vào dịp này, ở tuổi 37, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp được Cụ Hồ thay mặt Chính phủ và nhân dân phong quân hàm Đại tướng.

Trong hồi ký của mình, ông Lê Văn Hiến có kể lại rằng “Trong một căn nhà dựng bên cạnh suối lớn…sự trưng bày rất đơn giản mà trang nghiêm….Hồ Chủ tịch tay cầm sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt mà không nói được tiếng gì. Một phút vô cùng cảm động, có lẽ trong chúng mình, tuy không ai nhìn ai, nhưng mỗi người đều phải rớm nước mắt. Giây lâu, Hồ Chủ tịch mới cất được tiếng mà tuyên bố: Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho…”. Cách đó hơn 3 năm, khi Bác Hồ giao cho Chú Văn lập Đội quân giải phóng, Người đã có những lời giáo huấn mang tính kim chỉ Nam để Đội Quân Giải phóng tồn tại, phát triển và chiến thắng đó là Có Đảng lãnh đạo; dựa chắc vào dân; đoàn kết và kỷ luật. Nắm chắc cẩm nang này, trong suốt cuộc đời cầm quân của mình, tướng Giáp đã dẫn dắt Đội Quân cách mạng đi từ thắng lợi náy đến thắng lợi khác.

t12-1630295513.jpgĐại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trải qua hơn 20 chiến dịch, bộ đội ta đã trưởng thành, đánh dấu bằng sự ra đời của 2 đại đoàn chủ lực đầu tiên (Đại đoàn 308 thành lập tháng 8 năm1949 và Đại đoàn 304 tháng 3 năm 1950)., Còn phía Pháp khó khăn ngày càng thêm chồng chất, chỉ sau 4 năm chiến tranh đã phải 12 lần thay đổi nội các. Tháng 5-1949, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp Rơve (C.Revers) lập kế hoạch đưa cuộc chiến tranh Đông Dương vào quỹ đạo của Mỹ, đồng thời triệu hồi Tướng Bledô, đưa Tướng Cácpăngchiê (M.Carpentier) sang làm Tổng Chỉ huy quân đội ở Đông Dương, Cácpăngchiê trở thành đối thủ thứ tư của tướng Giáp  đúng vào dịp những chuyến tàu viện trợ quân sự của Nhà Trắng cập bến Sài Gòn và Hải Phòng.

Bằng chiến dịch tiến công quy mô đại đoàn diễn ra vào mùa khô năm 1950 trên chiến trường Đông Bắc, tiêu diệt gần 10 tiểu đoàn lính Pháp và Âu-Phi, giải phóng hoàn toàn đường chiến lược số 4, Võ Nguyên Giáp đã buộc Tổng Chỉ huy Cácpăngchiê phải chấp nhận “thảm họa Cao Bằng” để rồi ngay sau đó bị triệu hồi về nước. Tháng 12 năm đó, Paris phải xuất một viên tướng tuổi ngoài 60, với năm sao bạc, sang cầm quân với nhiệm vụ đặc biệt quan trọng “cứu Đông Dương không để tuột khỏi khối Liên hiệp Pháp”. Viên tướng này thuộc lớp đàn anh trong hàng tướng soái Pháp, thuộc dòng dõi quý tộc, được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc(Mỹ) coi là “sáng giá nhất” trong hàng ngũ tướng lĩnh của Pháp lúc bấy giờ, đó là Đơ Lat dơ Tát Xi Nhi. Jean Joseph Marie Gabriel Delattre de Tassigny trở thành đối thủ thứ năm của Tướng Giáp,

Đờ Lát có mặt ở Sài Gòn ngày 17tháng 12 năm1950 cùng với bộ máy chỉ huy mới, Trong đó có Xalăng là phó tướng. Để thể hiện quyết tâm đảm bảo “bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa thuộc địa Pháp”và làm chủ châu thổ sông Hồng, với tham vọng giành lại quyền chủ động chiến lược, Đờ Lát  Đơ Tát Xi Nhi đã tranh thủ sự viện trợ Mỹ để xây dựng phòng tuyến bê tông bao quanh đồng bằng Bắc Bộ và phát triển quân đội với quy mô lớn để khắc phục khủng hoảng binh lực ngày càng trầm trọng. Vào giai đoạn này, lần đầu tiên cụm từ Việt Nam hoá chiến tranh (Vietnamisation) đã xuất hiện, Sau này, liên hệ lại những việc làm của Đờ Lát Đờ Tát Xi Nhi, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ, tướng Giáp có nhận xét rằng: “Với việc mở đường cho thực dân mới vào Việt Nam, Đờ Lát đã mang đến cho ta một hiểm hoạ lâu dài”.

Thực tế cho thấy, kết quả viện trợ “hết mình” của Mỹ đã tạo điều kiện giúp cho Đờlát triển khai thuận lợi kế hoạch đưa ra. Tuy nhiên, trong những tháng Xuân Hè năm 1951, việc triển khai kế hoạch của Đờ Lát Đờ Tát Xi Nhi lại gặp không ít khó khăn, do bộ đội ta liên tiếp mở những chiến dịch tiến công địch trên các chiến trường ở cả Trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Lần đối phó quyết liệt đầu tiên khi tướng Giáp mở chiến dịch tấn công Vĩnh Yên trong Chiến dịch Trần Hưng Đạo (tháng 1-1951). Cuộc tấn công diễn ra ác liệt đến mức mà hàng ngày, Đờlát và Xalăng đã phải nhau bay đi bay về như con thoi giữa Vĩnh Yên và Hà Nội. có ngày như 15 tháng 1, 2 viên tướng này đã phải đi về tới ba lầnvà viên tướng Baillif, chỉ huy phó chiến trường Nam Bộ, đã được phái ra ngay để trực tiếp điều hành cuộc chiến ở Vĩnh Yên. Chỉ một vùng nhỏ hẹp, quân Pháp đã phải tiến hành tới 250 phi vụ oanh tạc, có ngày máy bay ném bom xuất kích tới 80 lần/chiếc, pháo binh Pháp đã bắn 50.000 viên đại bác 105 mm, 200.000 viên 75 mm và bom cháy (napalm) lần đầu tiên được đem ra sử dụng.

Thế nhưng, như sau này Tướng Xalăng với vai trò phó tướng đã phải thú nhận, ông ta lo lắng về số thương vong quá nhiều. Mặt trận Vĩnh Yên đã để lại nhiều vấn đề hệ trọng, rất đáng học tập, không thể xem nhẹ. Sự kiện cho thấy “quân đội Việt Minh đại diện cho một sức mạnh mà Pháp không thể coi thường. Tất cả chiến binh của họ được giáo dục tốt tới mức có một tinh thần chiến đấu kỳ lạ, gây ấn tượng sâu sắc đến tinh thần của lính Bắc Phi và chính tướng quân Đờlát cũng đã bị kích động bởi nhiệt tình chiến đấu, lối đánh thông minh của người lính Việt Minh trong tiến công cả ban ngày và ban đêm,..”.

Cuộc đọ sức thứ hai diễn ra hai tháng sau đó, trên hướng đường 18 và vùng duyên hải Đông Bắc. với Chiến dịch Hoàng Hoa Thám đúng vào dịp Đờlát về Pháp cầu viện. Được tin “vùng mỏ bùng cháy”, tướng Đờlát vội rời Pari lên đường để có mặt ở Hà Nội vào tối 26 tháng 3 rồi lao ngay xuống Hải Phòng trực tiếp điều binh khiển tướng. Mọi phương tiện hỏa lực, kể cả pháo của hải quân và thủy đội xung kích đều được huy động để cứu nguy cho Mạo Khê, Chợ Bí, Tràng Bạch…Thêm một điều bất ngờ đối với Đờlát là chỉ hai tháng sau, tướng Giáp lại mở chiến dịch Quang Trung ở Hà Nam Ninh và trong cuộc đọ sức lần thứ ba này, nỗi đau không hàn gắn được đối với Tướng Đờlát là đứa con duy nhất và cuối cùng của dòng họ, Bécna Đờlát (Bernard Delattre) 23 tuổi đã bị chết trong trận đánh núi Thúy. Theo Xalăng, sau khi đưa xác con về Pháp trở lại, Tổng Chỉ huy suy sụp cả về tinh thần và thể chất, nhất là khi bệnh ung thư tái phát.

Tháng 11 năm1951, mặc dù kế hoạch chiến lược chưa hoàn tất, nhưng bị thúc giục Tổng Chỉ huy Pháp ở Đông Dương phải ra quân để giành lại quyền chủ động chiến lược từ tay tướng Giáp. Đờlát quyết định “đánh một canh bạc lớn”, ông ta đem hơn 30 tiểu đoàn ra ngoài phòng tuyến boongke, chiếm thị xã Hoà Bình và trục đường số 6-sông Đà, với ý đồ “bẻ Việt Minh làm đôi”. Ngày 15 tháng 11, cuộc hành quân kết thúc, Tướng Đờlát họp báo tuyên bố: “Tôi đã tóm cổ được quân địch”, động viên ba quân “hãy củng cố công sự cho thật vững chắc và chờ đợi cuộc đụng độ với Việt Minh”. Nói rồi, bốn ngày sau, ông ta rời Sài Gòn về Pháp chữa bệnh, quyền Tổng Chỉ huy tạm chuyển sang tay phó tướng Xalăng.

Lượng sức mình, tướng Giáp tạm thời tránh chỗ mạnh của địch, để tập trung đánh mạnh trên trục giao thông trên bộ và trên sông, đặc biệt là đánh liên tục các đoàn tàu, đoàn xe vận tải của quân Pháp trên đường số 6 và sông Đà, là những con đường huyết mạch nuôi sống toàn bộ quân Pháp trên mặt trận Hoà Bình.

Phán đoán tình hình vùng sau lưng địch sơ hở, Tướng Giáp đã cho 2 đại đoàn luồn qua phòng tuyến boongke tiến sâu vào vùng trung du và đồng bằng sông Hồng, phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ tiêu diệt nhiều đồn bốt địch, giải phóng gần 2 triệu dân trên diện tích 4.000 km2 trong vùng địch hậu. Bị đánh mạnh trên cả 2 mặt trận, Tướng Xalăng điều các đoàn quân cơ động GM 1, 3, 4, 7 như đèn cù từ trong phòng tuyến ra ngoài rồi lại từ ngoài trở vào trong để đối phó nhưng vẫn không cứu vãn được tình thế. Cái dạ dày Hoà Bình bị teo dần vì hai “ống thực quản” đã bị khống chế gay gắt,. Đúng lúc đó, ngày 11 tháng 1 năm1952, Tướng Đờlát đờ Tátxinhi về chầu Trời. Xalăng được giao tạm quyền chỉ huy rồi chinh thức từ tháng 4 năm 1952  trở thành đối thủ thứ sáu của ông Giáp.

Tướng Xa Lăng quyết định thu hẹp thế chiếm đóng và rồi cho quân rút chạy khỏi Hoà Bình vào ngày 22 tháng 2 năm 1952. Để 20.000 quân tháo chạy an toàn trong ba ngày, phía quân đội Pháp đã phải bắn trên 30.000 viên đạn đại bác từ Hoà Bình, dọc đường số 6 về đến Xuân Mai.

Nỗi lo ngày đêm của Xalăng là làm sao cho vùng châu thổ sông Hồng khỏi bị “ruỗng nát” (pourrissement); những cuộc càn quét của viên tướng này diễn ra chưa bao giờ khốc liệt như  vào Xuân-Hè năm 1952, đã gây cho dân ta nhiều tổn thất ở vùng sau lưng địch. Dự kiến tình hình địch hậu gặp khó khăn, theo chỉ thị ngày 28 tháng2năm1952 của Ban Bí thư, Tướng Giáp đã chỉ đạo cơ quan Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh phối hợp cùng các ngành hữu quan vận dụng nhiều biện pháp tích cực, kiên quyết duy trì thế và lực cách mạng trong vùng tạm bị chiếm. Quán triệt Nghị quyết Trung ương về tình hình, nhiệm vụ chung và về nhiệm vụ quân sự trước mắt…, chưa bao giờ sự chỉ đạo của Tổng Tư lệnh đối với vùng địch hậulỊ  khẩn trương , sâu sát và, cụ thể đến như vậy.“Bước chân du kích” đã tiến kịp và hỗ trợ đắc lực cho “bước chân chính quy”.

Mùa khô đến, trong tay Bộ Thống soái quân đội ta đã có 6 đại đoàn dự bị chiến lược. Phải chọn hướng tiến công nào để tạo nên một chuyển biến có tầm chiến lược là vấn đề lớn đặt ra. Từ kết luận về khó khăn trên chiến trường Trung du và Đồng bằng trong Xuân-Hè năm 1951 và những thuận lợi trên chiến trường rừng núi, mùa khô này tướng Giáp đã đi đến một quyết định mang tầm chiến lược đặc biệt quan trọng, đó là đề nghị với Trung ương cho chuyển hướng tiến công của bộ đội chủ lực lên chiến trường rừng núi miền Tây.

Với sự chuyển hướng này, Chiến dịch Tây Bắccuối năm 1952 và chiến dịch phối hợp với quân đội Pathét Lào về hướng Sầm Nưa (Thượng Lào), là hai đòn tiến công không chỉ giải phóng nhân dân và giải phóng đất đai mà còn mang ý nghĩa chiến lược, tạo điều kiện để xây dựng một căn cứ địa rộng lớn trên miền Tây Bắc, giúp cách mạng nước bạn chỗ đứng chân vững chắc và nhất là tạo thế thuận lợi cho các kế hoạch chiến lược tiếp theo,

Đúng vào những ngày tướng Giáp chỉ đạo bộ đội truy kích địch trong Chiến dịch Sầm Nưa (Thượng Lào) thì Paris lại quyết định thay tướng. Raun Xalăng, quyền Tổng Chỉ huy chuyển sang tay Tướng Nava (Henri Navarre); một viên tướng trẻ, trưởng thành từ nghề tình báo và có tiếng là tài ba về nhãn quan chiến lược.  Ngày 7 tháng 5 năm-1953, giao nhiệm vụ cho tướng Nava, Thủ tướng Pháp nêu rõ “Hãy giúp Chính phủ tìm ra một lối thoát danh dự”. Tổng Chỉ huy H.Nava trở thành đối thủ thứ bảy, đối thủ Pháp cuối cùng của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Sau một tháng nghiên cứu, chiến lược 18 tháng của Nava được xây dựng, Hội đồng Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua và Oasinhtơn đảm nhận tới 78% chiến phí. Chỉ hơn nửa năm, binh lực Pháp lên tới 48 vạn, gồm 286 tiểu đoàn, trong đó khối cơ động chiến lược lên tới 50 tiểu đoàn, Tướng Nava lớn tiếng tuyên bố: “Quyết chơi với ông Giáp một ván bài toàn hồng”.

Trước một đối thủ lắm tiền, đông quân, nhiều súng đạn. Vấn đề đặt ra là làm sao vô hiệu hoá được khối cơ động chiến lược khổng lồ của Nava. Bác Hồ chỉ thị: Mở chiến dịch trên nhiều hướng chiến lược quan trọng, buộc địch phải phân tán binh lực đối phó. Bước vào mùa khô 1953-1954, lần đầu tiên Tướng Giáp đưa các đại đoàn chủ lực ra đánh đồng thời, liên tiếp và hỗ trợ lẫn nhau theo 5 hướng chiến lược trên chiến trường rừng núi Tây Bắc, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên và Thượng Lào, đồng thời ông chỉ đạo quân dân vùng địch hậu cả nước đánh mạnh để giam chân địch, hỗ trợ cho các chiến dịch tiến công phía trước.

Mỗi lần Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra đòn là một lần Bộ Chỉ huy Pháp phải tung quân đi chữa cháy, khiến “hầu bao cơ động chiến lược” của Nava cứ teo bớt dần. Trong đợt đầu chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954, tướng Giáp đã biến hơn 40 tiểu đoàn cơ động của Nava từ tập trung dày đặc ở đồng bằng Bắc Bộ phải chia năm, xẻ bảy và chôn chân trên các chiến trường rừng núi ở khắp Đông Dương.

Trước chiến dịch Điện Biên Phủ, trong tay Tổng chỉ huy quân đội Pháp còn 20 tiểu đoàn dự bị, nhưng luôn bị căng mỏng để đối phó với chiến tranh du kích. Đợt đầu của cuộc đấu trí, đấu lực mùa khô 1953-1954, Nava đã thua một bước cơ bản;ông ta quyết dồn tâm lực vào bước bước quyết định, phân thắng bại trên cánh đồng Mường Thanh và coi đây cũng là nước cờ quyết định

Trong chiến dịch giải phóng Lai Châu, H.Nava đã ném 6 tiểu đoàn xuống cánh đồng Mường Thanh với lý do ngăn không cho chủ lực đối phương tiến quân sang Thượng Lào. Nửa tháng sau, ông ta lại đi đến một quyết tâm có tầm quan trọng đặc biệt là xây dựng cánh đồng Mường Thanh thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương để làm cái “nhọt hút nọc độc” nhằm thu hút quân chủ lực của đối phương.

t123-1630295583.jpgĐại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dich Điện Biên Phủ 1954

Ý đồ chiến lược của H.Nava nảy sinh vào đầu tháng 12 năm1953; tập đoàn Điện Biên Phủ được, xây dựng gồm 49 cứ điểm kiên cố với tất cả binh khí và kỹ thuật hiện đại cùng 1,6 vạn quân tinh nhuệ, mạnh tới mức mà các quan chức quân; dân sự Pháp và Mỹ đều khẳng định là một “pháo đài bất khả xâm phạm”, là một cái “máy nghiền” (broyeuse), sẵn sàng nghiền nát đối phương nếu họ “dám” đụng vào đây.

Trước sức mạnh quân giặc,kế hoạch tác chiến ban đầu của ta là đánh nhanh giải quyết nhanh, đưa một đại đoàn vào hướng Tây, hai đại đoàn vào hướng Đông Mường Thanh, tiến công đồng loạt với quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch trong vài ba ngày đêm. Sau 12 ngày bám sát diễn biến của địch, cân nhắc thấy tình hình đã thay đổi, tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp kết luận: đánh theo chiến thuật “biển người” không bảo đảm chắc thắng. Nhớ lại lời dặn của Bác Hồ trước khi lên đường, ông đã đi đến “một quyết định khó khăn nhất” trong cuộc đời cầm quân, đó là tạm đình chỉ cuộc tiến công và thay đổi phương châm tác chiến, từ đánh nhanh giải quyết nhanh sang đánh chắc tiến chắc. Qua nhiều trao đổi, thảo luận, thuyết phục, cuối cùng Tướng Giáp đã cùng tập thể Đảng ủy Mặt trận thống nhất thay đổi cách đánh.

Qua gần 50 ngày, đêm khẩn trương tiếp tục chuẩn bị và đến khi khẳng định đầy đủ các yếu tố thắng lợi, chiều ngày 13 tháng 3 năm1954, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp mới hạ lệnh cho bộ đội mở màn chiến dịch và kết thúc vào ngày 7 tháng 5, vừa tròn 1 năm kể từ ngày bại tướng H. Nava nhận nhiệm vụ tìm lối thoát danh dự của Thủ tướng Pháp.

 56 ngày đêm của Chiến dịch Điện Biên Phủ là quá trình Đại tướng đã cùng Đảng ủy Mặt trận chỉ đạo vận dụng mọi biện pháp tích cực và sáng tạo nhằm từng bước hạn chế chỗ mạnh về binh khí, kỹ thuật của quân Pháp, vô hiệu hoá tính vững chắc của hệ thống phòng thủ hiện đại của tập đoàn cứ điểm, hạn chế rồi triệt hẳn nguồn tiếp tế tăng viện duy nhất bằng không quân của địch và làm thất bại mọi ý đồ giải tỏa và tháo chạy của chúng. Cùng toàn quân giành thắng lợi vang dội trên chiến trường Điện Biên Phủ, niềm tự hào lớn nhất của ông là đã chấp hành nghiêm chỉnh và trọn vẹn chỉ thị của Bác Hồ khi lên đường ra trận Chỉ được đánh thắng.

Những bại tướng Mỹ chịu khuất phục trước sức mạnh của quân đội Nhân dân Việt Nam

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, giữa năm 1954, miền Nam Việt Nam đã bắt đầu quá trình Pháp đi,Diệm về và Mỹ tới. Trước mưu đồ thâm độc chia cắt đất nước, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa, làm căn cứ quân sự lâu dài của Mỹ. Người dân miền Nam đã không được hưởng một ngày thực sự hoà bình. Hiệp định Giơnevơ 1954 ký chưa ráo mực, những cuộc khủng bố đẫm máu người kháng chiến cũ đã diễn ra hàng ngày. Ngô Đình Diệm khước từ hiệp thương tổng tuyển cử tiến tới thống nhất đất nước, Mỹ giúp chính quyền Sài Gòn phát triển quân đội quy mô lớn; linh ngụy thời Pháp được thay thế bằng kiểu quân lực Hoa Kỳ. Trước tình hình mới, năm 1957, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Quân ủy Trung ương tập trung xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng bảo vệ miền Bắcvà khẩn trương chuẩn bị quân sự cho cách mạng cả nước.

 Hai năm sau ngày Mỹ-Diệm lộ rõ âm mưu xâm lược và chia cắt đất nước, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là dùng bạo lực cách mạng đánh đổ tập đoàn thống trị, tay sai của đế quốc Mỹ. Cùng với Nghị quyết này, đường chiến lược 559 cũng được hình thành. Sau này, Tướng Giáp cho biết “Ngay từ đầu, chúng tôi đã nhận định người Mỹ, với chiến lược phản ứng linh hoạt, sẽ leo thang chiến tranh và quân Mỹ sẽ vào. Nếu quyết giành lại miền Nam, chúng tôi phải mở rộng mặt trận và đánh những chiến dịch lớn. Chính vì thế, tháng 5 năm1959, chúng tôi ra lệnh mở đường mòn Hồ Chí Minh”.

Năm 1964, khi viên tướng Mỹ Taylo (Maxwell Taylor) được cử sang thay Cabốt Lốt (Henri Cabot Lodge) làm đại sứ ở miền Nam và Tướng Oétmolen (Westmoreland) thay Tướng Hakin (Harkins) làm Tổng Chỉ huy, chuẩn bị chuyển sang “chiến lược chiến tranh cục bộ” thì tình hình miền Nam đã khác hẳn những năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ.

Mùa Xuân năm 1965, Tổng thống Giônxơn (L.B.Johnson) chính thức quyết định cho quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Đây cũng là lúc trục đường vận chuyển chiến lược (đường Hồ Chí Minh) đã nâng công suất  vận chuyển từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam lên gấp 14 lần về bộ đội chủ lực và gấp 10 lần về phương tiện chiến đấu so với năm 1960 và  3 thứ quân; trong đó, bộ đội chủ lực được  tổ chức ở quy mô sư đoàn đã triển khai trên các địa bàn chiến lược chủ yếu.

Thực tiễn diễn ra cho thấy, cơ quan Tổng hành dinh và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, từ năm 1965 đã cùng toàn quân, toàn dân trực tiếp đối mặt với quân viễn chinh Mỹ trong bối cảnh khác với cuộc kháng chiến chống Pháp. Vấn đề đặt ra là vận dụng kinh nghiệm đánh Pháp và kiến thức mới như thế nào vào điều kiện đối tượng tác chiến đã thay đổi.Kẻ địch là quân đội của  nước có tiềm lực quân sự rất lớn, nhất là về binh khí và kỹ thuật.

Khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam, chiến lược 1965-1967 của Tổng Chỉ huy Oétmolen (Westmoreland) được tổng thống Mỹ chính thức thông qua đã đặt hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu cùng nửa triệu quân đội Sài Gòn dưới quyền điều hành tập trung của Cơ quan viện trợ quân sự Mỹ (MACV) do tướng Oétmolen cầm đầu. Tướng 4 sao Oétmolen là đối thủ thứ tám và là đối thủ Mỹ đầu tiên của ông Giáp.

Vấn đề đặt ra đối với Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng cách nào? 

Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua miền Nam tháng 5 năm1965 đã rút ra, cứ đánh Mỹ sẽ tìm ra cách thắng Mỹ. Cũng trong dịp này, lãnh đạo Khu 5 chủ trương tiêu diệt một đơn vị Mỹ để hạ uy thế ngay từ đầu. Trận Núi Thành (27tháng 5 năm1965) được ghi nhận là trận đầu thắng Mỹ. Cũng từ trận này, xuất hiện khẩu hiệu “Gặp Mỹ là đánh, tìm Mỹ mà diệt”. Nửa năm sau, tháng 11 năm1965, chiến dịch đánh Mỹ đầu tiên Plâyme, đặt dưới sự chỉ huy của tướng Chu Huy Mân đã thu hút sự chú ý lớn của nhiều ký giả Mỹ và phương Tây, được coi là một trong những trận đánh mà tướng lĩnh Mỹ phải đánh theo cách đánh của tướng lĩnh Việt cộng.

Kinh nghiệm cầm quân của Tướng Giáp cho thấy, trước khi ra trận ông thường buộc đối phương phải phân tán binh lực. Đòn “hiểm” là dồn tướng lĩnh Mỹ vào thế bị động chiến lược, Các nhà phân tích đã khái quát điểm nổi bật trong cuộc đấu trí, đấu lực giữa 2 Bộ Thống soái đối kháng trong những năm đầu quân Mỹ trực tiếp tham chiến, là 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967) của Mỹ và cho rằng, Tướng lĩnh Việt Nam đã làm phá sản chiến lược “tìm diệt”, một chiến lược đã được Lầu Năm Góc thận trọng nghiên cứu và phê duyệt trước khi Oétmolen ra quân. Cuộc hành quân Gianxơn Xity (Junction City) từ tháng 2 đến tháng 4-1967), một chiến dịch “tìm diệt” được coi là lớn nhất của Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam, với quy mô 4,5 vạn quân, mang ý đồ “đánh gãy xương sống của Việt cộng” đã hoàn toàn thất bại. Điều này cũng  giải thích vì sao, ngày 8 tháng12, khi kết thúc mùa khô thứ hai của Mỹ, Ngoại trưởng Raxcơ (Dean Rusk) đã phải than thở, năm 1967 là năm đau khổ và khốc liệt đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Thất bại liên tiếp trong hai mùa khô đã dẫn đến sự phân hoá và xáo trộn trong hàng ngũ quan chức Mỹ. Cabốt Lốt trở lại thay Taylo làm đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Hơn một năm sau, đến lượt (R.McNamara) cũng phải xin ra khỏi Lầu Năm Góc. Điều trớ trêu là cuộc tiến công Tết Mậu Thân (1968) lại đồng loạt nổ ra vào thời điểm quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam đã lên tới con số kỷ lục trên 54 vạn. Tổng Chỉ huy Oétmolen đã báo cáo chính thức về nước, nói rõ 5 thành phố lớn, 34 tỉnh lỵ, 64 quận lỵ và tất cả các thị trấn đêu bị tấn công. Sử gia Cơri nhận xét, Bộ Thống soái Bắc Việt đã khéo thu hút sự chú ý của Oétmolen và cả hệ thống săn tin của CIA vào mục tiêu Khe Sanh để rồi bất ngờ mở cuộc Tổng tiến công trên toàn miền Nam; còn các ký giả Mỹ lại rút ra kết luận, vũ khí chủ yếu của cộng sản là sự bất ngờ. Cuộc tiến công vào sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đã thực sự làm cho người Mỹ ở Sài Gòn cũng như ở Oasinhtơn choáng váng. Do sự kiện Tết Mậu Thân mà những cố vấn “thông minh và thân cận nhất” của Tổng thống Mỹ đã nói với Giônxơn là Chúng ta không thể nào giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam!.

Sau đợt I của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Tổng Chỉ huy quân đội Mỹ Oétmolen và Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Sáp (G.Sharp) đều bị cách chức; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mắc Namara cũng chính thức ra đi. Đợt Icủa cuộc Tổng tiến công còn buộc Tổng thống Giônxơn phải xuống thang một bước quan trọng, chấp nhận ngừng ném bom miền Bắc và cử phái đoàn sang Pari đàm phán với đối phương. Khi cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân bắt đầu, ít người nghĩ rằng nó sẽ tác động đến bộ máy cầm đầu chiến tranh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đến như thế. Đúng vào ngày bắt đầu đợt 2 của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân (ngày 4 tháng5), Tổng Chỉ huy mới Abram (C.Abrams) nhậm chức và trở thành đối thủ thứ chín của ông Giáp.

Để tạo điều kiện cho Abram triển khai Việt Nam hoá chiến tranh thuận lợi, Tổng thống Mỹ đã xin Quốc hội chuẩn y khẩn cấp 6,3 tỷ đôla, nhưng đề nghị bị Hạ viện bác bỏ. Trong bối cảnh này, Tướng Abram phải triển khai đồng thời 2 việc; từng bước rút quân Mỹ theo trình tự Lầu Năm Góc dự kiến và thử nghiệm khả năng độc lập tác chiến của quân đội Thiệu,

Tướng Giáp đã chú ý theo dõi sát bước đi của viên tổng chỉ huy Mỹ mới. Ông phán đoán Abram sẽ hướng vào Đông Bắc Campuchia và Trung-Hạ Lào nhằm đánh vào đường giao thông chiến lược và chỗ đứng chân của ta trên đất bạn. Tháng 6 năm1969, Abram tuyên bố, nếu phá được đất thánh của Việt cộng trên đất Campuchia thì chiến tranh ở miền Nam Việt Nam có thể kết thúc trong một năm.

Theo lệnh của Quân ủy Trung ương và của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, mùa hè năm 1970, việc chuẩn bị chiến trường khu vực đường 9 đã được xúc tiến khẩn trương; binh đoàn được thành lập, sẵn sàng làm nhiệm vụ cơ động chiến lược. Về phía Mỹ, đầu tháng 2 năm1971, kế hoạch chiến lược mới được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chính thức thông qua. Như vậy là, trước khi Abram thực sự triển khai chiến lược Việt Nam hoá trên chiến trường, tướng Giáp đã đi trước những nước cờ quan trọng.

Theo kế hoạch, Abram và Bộ Tham mưu của Thiệu tung quân đội Sài Gòn thực hiện 3 cuộc tiến công ra đường 9-Nam Lào (Chiến dịch Lam Sơn 719), sang hướng Đông Bắc Campuchia (Chiến dịch Toàn thắng 1/71) và vùng biên giới Tây Nguyên (Chiến dịch Quang Trung 4). Trong khi đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo các chiến trường khẩn trương chuẩn bị “đón” Toàn thắng 1/71 và Quang Trung 4. Và theo kế hoạch chung của Tổng hành dinh, tướng Lê Trọng Tấn và Lê Quang Đạo cũng nhận lệnh tổ chức và điều hành Mặt trận đường 9- Nam Lào, nhằm đánh bại Lam Sơn 719.

Ngày 8 tháng 2 năm 1971, Mỹ và Sài Gòn ra quân thực hiện chiến dịch Lam Sơn 719, nhưng điều bất ngờ lại đã diễn ra. Do tướng Giáp điều quân đến với tốc độ quá nhanh, khiến quân Mỹ và Việt Nam cộng hoà buộc phải làm một việc khó khăn nhất trong tất cả các hoạt động quân sự, đó là rút lui trước cuộc tiến công mãnh liệt của đối phương. Cũng vào dịp này, trên chiến trường Tây Nguyên và Campuchia, Toàn thắng 1/71 và Quang Trung 4 cũng chịu chung số phận. Thế là những cuộc hành quân này đã đánh dấu chấm hết đối với chương trình Việt Nam hoá của Mỹ.

Từ đó đến hết năm 1972, theo phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền Nam tiếp tục điều hành các chiến trường giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch liên tiếp. Chiến dịch Bắc Tây Nguyên và chiến dịch Trị -Thiên kết thúc cũng là lúc Oasinhtơn thay tướng. Từ giữa năm 1972, tại Sài Gòn quyền Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ đã chuyển từ Tướng Abram sang Tướng Uâyoen (F.C.Weyand). Uâyoen trở thành đối thủ thứ mười và là đối thủ Mỹ thứ ba của ông Giáp

Vào thời gian này tại Hà Nội, nhận thấy khả năng B.52 đánh miền Bắc đã đến gần,Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo các cơ quan Tổng hành dinh và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân nghiên cứu cách đánh B.52 của Mỹ. Vấn đề trăn trở đối với tướng lĩnh ta lúc này là cách đánh. Đại tướng vừa giao nhiệm vụ vừa động viên Quân chủng Phòng không-Không quân, ông cho biết, chúng ta đã tìm được cách đánh Mỹ trên bộ, phải tìm cho ra cách đánh Mỹ trên không, kể cả B.52.

t1234-1630295677.jpgĐại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Tư lệnh Quân chủng phòng không-không quân xác định phương án tác chiến đánh B 52 bảo vệ Hà Nội (11-1972)

Một nhóm cán bộ của quân chủng được giao nhiệm vụ nghiên cứu biên soạn Phương án đánh B.52. Bám sát kinh nghiệm thực tế, dần dần Phương án đánh B.52 đã hình thành sau nhiều lần nghiên cứu, biên soạn, thảo luận, bổ sung, sau cùng đã được giới thiệu trong hội nghị cuối tháng 10-1972, một hội nghị mà Tổng Tư lệnh đã chỉ thị: Tập trung thảo luận để đi đến thống nhất về cách đánh B.52 của bộ đội tên lửa. Kết luận quan trọng rút ra từ hội nghị này là: “Chúng ta có thể bắn rơi tại chỗ B.52 của Mỹ”. Từ thực tế sáng tạo của bộ đội, khái quát thành lý luận, nguyên tắc và biện pháp, trả về cho bộ đội thực hành, đó là những bước đi ban đầu, cuối cùng dẫn đến chiến công vang dội được mệnh danh là Điện Biên Phủ trên không cuối tháng 12-1972.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất trân trọng trí thông minh và tinh thần sáng tạo của những người đã làm nên cái ông gọi là “một sự bất ngờ mà Mỹ không hề lường trước”. Ngay sau ngày chiến tháng B.52, trong hội nghị cán bộ tại hội trường quân chủng, ông cho rằng, Quân chủng đã phát huy một cách xứng đáng ý chí dám đánh và trí tuệ biết đánh để chiến thắng binh khí, kỹ thuật siêu hiện đại của đế quốc Mỹ.

Sau thất bại của cuộc tập kích chiến lược bằng B.52, Tướng Uâyoen nhậm chức chưa đầy 10 tháng, ngày 29 tháng 3 năm 1973, Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tổng Chỉ huy Uâyoen cùng 2.501 lính được coi là “những quân nhân cuối cùng” của quân lực Hoa Kỳ rời khỏi Nam Việt Nam, chấm dứt quá trình thất bại liên tiếp của ba đại tướng Tổng Chỉ huy Mỹ trong 7 năm điều hành quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.

Thay cho lời kết

 Nhiều sách báo đã nói về cuộc kháng chiến thần thánh giành độc lập thống nhất của dân tộc. Trong những nhân tố thắng lợi của kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có một nhân tố đặc biệt, đó là bản lĩnh cầm quân và tài thao lược của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ông là người trực tiếp dẫn dắt “đội quân thơ ấu” từ hai bàn tay trắng lớn lên trong cuộc trường chinh mười ngàn ngày và đã đánh bại 10 đại tướng của quân đội viễn chinh nhà nghề của 2 đế quốc to.

Thành công trong cuộc đời cầm quân của Võ Đại tướng gắn liền với sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ buổi ban đầu và cũng bắt nguồn từ chính sự dìu dắt đó, ông luôn tâm niệm một điều Đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết, lợi ích nhân dân lên trước hết.

Là vị tướng quán triệt sâu sắc tư tưởng và phương pháp luận Hồ Chí Minh,ông là người cầm quân tiếp thu và thể hiện đầy đủ tư cách một người tướng gồm sáu đức tính Trí-Tín-Dũng- Nhân -Liêm-Trung mà Bác Hồ đã dạy. Từ năm 1944 đến 1975, cuộc đời tướng Giáp luôn gắn với chiến trận và chiến thắng đã đưa ông trở thành một trong những thống soái lớn của các thời đại, Với trên 30 năm làm Tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự cấp cao, ông đã thể hiện là người có phẩm cách phi thường.

Trong cuốn sách Giáp một sự đánh giá của Peter Mac Donald, tác giả cho rằng: Trong mọi lãnh vực chiến tranh, khó có một tướng soái nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy ở trình độ cao. Sự kết hợp này xưa nay chưa từng có. Về chiến lược, ông có nhãn quan sâu rộng và biết nắm những vấn đề mấu chốt. Trong chiến tranh chính quy, hơn ai hết, ông biết làm cho bộ đội hiểu được những nguyên tắc của việc nắm thời cơ, hiệu quả của yếu tố bất ngờ, ngụy trang và nghi binh, lừa địch, Về lĩnh vực hậu cần, ông tỏ ra rất xuất sắc trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, từ tuyến tiếp tế Diện Biên Phủ đến Đường mòn Hồ Chí Minh.

Tên tuổi tướng Giáp đã được ghi đậm nét trong các từ điển Bách khoa thế giới với những đánh giá không thiên vị. Đại Bách khoa toàn thư Pháp ghi nhận “Võ Nguyên Giáp đã thực hiện thành công một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự Mac xit kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc và vận dụng khôn khéo vào điều kiện của một quốc gia tương đối hẹp. Tư tưởng và hành động của ông không chỉ trong phạm vi nguyên tắc thuần túy quân sự mà dựa vững chắc vào tiền đề chính trị là sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân vào nỗ lực kháng chiến…”. Theo Bách khoa toàn thư Quân sự-Quốc phòng nước Mỹ, tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn và uyển chuyển cả về chính trị và ngoại giao..., đã giúp người châu Á đánh bại được các tướng lĩnh phương Tây cùng các học thuyết của họ.

Từ cuối thập niên 1970 đến nay,nhiều ký giả phương Tây vẫn tiếp tục nghiên cứu về cuộc sống đời thường của nhà quân sự lỗi lạc Việt Nam mà họ cho là nhân vật xuất chúng nhất của thời kỳ chiến tranh. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp một số thông tin để cùng trao đổi./.