Bài học nghề đầu tiên ông dành cho tôi là học từ bài báo không được đăng, phương pháp dạy của ông là "không dạy cái gì" chỉ định hướng và đánh thức những gì vốn có trong quá trình tích lũy và sự trải nghiệm thực tế.
Học từ những bài báo không được đăng
20 năm trước, từ một cơ duyên người viết bài này đã vinh dự được gặp nhà báo lão thành Đỗ Phượng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng giám đốc TTXVN. Những thiện cảm ban đầu về một nhà báo lão thành giản dị, gần gũi, am tường nhiều lĩnh vực nhưng lại rất khiêm tốn đã khiến tôi dần dần trở nên yêu thích nghề báo từ lúc nào không biết.
Kể từ đó, dù đi bất cứ đâu, tôi cũng luôn chăm chú quan sát, ghi lại những diễn biến xung quanh. Từ những tấm gương người tốt việc tốt đến những vụ việc phức tạp, tôi đều ghi lại trung thực và đến báo cáo xin ý kiến ông triển khai bài viết.
Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in về bài báo đầu tiên của mình không được ông cho đăng không phải vì viết yếu mà vì nhạy cảm. Cảm xúc hụt hẫng khi bài viết đã được chuẩn bị cẩn thận nắn nót từng con chữ, từng tấm ảnh và tài liệu chứng minh kèm theo...Vậy mà phút cuối ông lại quyết định không cho đăng mà còn phải đi gặp một đồng chí lãnh đạo để báo cáo trực tiếp vụ việc.
Bút tích của cố nhà báo Đỗ Phượng về việc dừng đăng một bài báo để báo cáo trực tiếp xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo |
Bài học đầu tiên ông muốn chúng tôi những người muốn làm báo phải ghi nhớ khi cầm bút là người làm báo phải luôn tránh "đưa tin kiểu vặt lông gà giữa chợ". Một bài báo đã viết cần phải cân nhắc lại việc đăng hoặc không đăng cũng phải vì lợi ích phục vụ độc giả và trách nhiệm xã hội của người cầm bút. Không được viết, càng không được đăng những "tin tức" chưa được xử lý cẩn trọng và tính toán sự tác động nhiều mặt của nó.
Theo ông, đây là kỹ năng đầu tiên mà người làm báo cần phải tập trung công phu rèn rũa. Vì nó mâu thuẫn với yêu cầu nhanh chóng, kịp thời và sự "nóng hổi" của tin tức mới. Người làm báo cần phải học và thường xuyên rút kinh nghiệm về những gì thất bại, chưa đạt được.
Ông kể lại, những kỷ niệm ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị bài phát biểu cho Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng Bí thư Trường Chinh, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn...không phải bài viết nào cũng được sử dụng. Có khi chính những bài viết không được sử dụng lại là những bài học "nhớ đời" giúp người viết trưởng thành.
“Trong cuộc đời chú được Ông Cụ 3 lần gọi viết bài phát biểu cho Cụ. Nhớ nhất là năm 1964, tại Hội nghị chính trị đặc biệt Bác đọc lời hiệu triệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Được giao nhiệm vụ viết bài “hịch” này cho Bác, chú đã mất cả tuần loay hoay. Tuy nhiên, đến hôm hội nghị Bác đọc mà không dùng bất cứ một dòng nào chú viết cả”, ông tâm sự.
Theo ông Đỗ Phượng thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người cực kỳ cẩn trọng trong câu chữ. Sửa từng dấu chấm, phẩy, gạch ngang. Năm 1973, ông được giao viết bài diễn văn cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc tại lễ mít tinh mừng ký kết Hiệp định Paris, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam vào tối 1.9. Viết xong ông Phượng lên đường đi công tác ở Ba Lan. Vào cái tối Thủ tướng đọc ông Phượng đã dò radio để nghe. Chỉ có chưa đến một phần tư bài viết được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sử dụng.
Rồi ông Phượng kể rằng, viết bài cho đồng chí Trường Chinh tuy khó mà lại dễ. “Mỗi lần cần một bài viết Cụ Trường Chinh thường triệu tập 4-5 anh em lại hỏi ý kiến rồi tự đưa ra kết luận: Phần này cần viết nội dung gì, bao nhiêu từ. Có dàn ý như vậy rồi nên dễ viết. Mà đã viết là được dùng”- ông Đỗ Phượng nhớ lại.
Tác giả bài viết và những kỷ niệm khó quên bên nhà báo Đỗ Phượng |
Trầm ngâm một lát rồi ông kể tiếp, “Anh Ba Duẩn là một hiện tượng kỳ lạ. Trong những năm tháng mà tôi biết, chỉ một lần duy nhất anh đọc nguyên văn, đó là Điếu văn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn lại anh toàn nói vo, kể cả tại Đại hội Đảng. Một lần, vào khoảng tháng 1.1973, tôi được giao viết bài cho anh. Đang hý húi viết thì anh Ba vào. Anh bất ngờ hỏi: Sai lầm lớn nhất của Nguyễn Huệ là gì? Rồi anh tự trả lời (tính anh vẫn thế tự hỏi, rồi tự trả lời): Cả ba lần ra Bắc, kể cả lần đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đều trở về quê cũ. Thì ra anh Ba muốn nói phải thống nhất đất nước. Cứ ý đó mà suy ra nên viết bài trúng phóc.
Tương tự ông kể, năm 1975, đang ngồi viết bài cho anh Ba lần đầu tiên phát biểu ở miền Nam, sau giải phóng. Anh Ba đi vào, lại hỏi: Sai lầm thứ hai của Nguyễn Huệ là gì? Anh Ba lại tự trả lời: Sau khi giải phóng thành Gia Định, Nguyễn Huệ để thằng em bất tài, bất lực là Nguyễn Lữ giữ thành. Khi mất thành Gia Định, nhanh chóng để rơi đất nước vào tay Gia Long. "Theo tinh thần đó, tôi đã tiếp nhận từ bài nói của anh Ba: Không phải thắng lợi rồi mà quên tăng cường lực lượng củng cố và xây dựng vùng mới giải phóng”, ông Phượng chia sẻ.
Phong cách viết báo và làm báo của Bác Hồ
Ông cho rằng, để một người làm báo làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, thì phải không ngừng tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, vì báo chí là để “phục vụ nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”. Không chỉ có thế, người làm báo còn phải luôn nâng cao trình độ văn hóa, đi sâu vào nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình để “phò chính trừ tà”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Báo Nhân Dân tại Chiến khu Việt Bắc. Ảnh: Tư liệu |
Ông nhấn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...và các vị lão thành cách mạng tiền bối làm báo ngày trước là để làm cách mạng. Báo chí là phương tiện sắc bén trong đấu tranh chính trị. Vì vậy, người viết cần phải thường xuyên rèn luyện “nghệ thuật tổ chức thông tin” trong làm báo. Trong đó, cần phải thường xuyên học tập, vận dụng phong cách viết báo và làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, viết báo phải có căn cứ xác thực: Bác căn dặn: “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”. Bác yêu cầu người viết báo phải có trách nhiệm cao trước nội dung bài báo của mình, phải có căn cứ thuyết phục. Không được vội vàng mới nghe qua đã viết, không được chủ quan, suy đoán, phải có điều tra, nghiên cứu kỹ, nếu không đúng thì không nên viết.
Thứ hai, viết cho sát đối tượng: Bác dạy người làm báo: “Bao giờ cũng phải tự hỏi: “Viết cho ai xem, nói cho ai nghe? Nếu không như vậy thì cũng như cố ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem”. Sinh thời, đối với đồng bào, chiến sĩ, Bác viết thật giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ. Bác dặn: “Viết sao cho giản đơn, dễ hiểu, thiết thực. Sao cho mỗi đồng bào, chiến sĩ đều đọc được, hiểu được, nhớ được, làm được”. Song, đối với các học giả và chính khách quốc tế, Bác viết một cách uyên bác, lập luận khoa học, chặt chẽ, thuyết phục. Thực hiện lời của Bác trong nghề báo hôm nay, chúng ta phải thấy trình độ của người đọc đã cao hơn nhiều so với trước; bài báo phải có cơ sở thực tiễn và khoa học mới đạt được tính thuyết phục cần thiết cho đối tượng.
Thứ ba, viết ngắn gọn, giản dị: Đây là đặc trưng nổi bật của văn phong báo chí và ngôn ngữ cũng như cách viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho bất cứ đối tượng nào, kể cả những bài viết chính luận, cho đối tượng có học thức, tuy mức độ có khác nhau. Bác căn dặn: “Nói những điều thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, vẽ dễ hiểu, trình bày rõ ràng, ít tiếp sang trang khác”. Viết ngắn không dễ, phải đi thẳng vào nội dung, không lan man khoe chữ làm ra vẻ nhiều kiến thức. Khắc phục được nhược điểm này sẽ đạt được sự giản dị, thiết thực khi viết báo.
Thứ tư, viết sinh động, lôi cuốn: Đây là một nhu cầu thường xuyên để thu hút người đọc. Muốn vậy, theo phong cách của Bác, viết cần dùng hình ảnh, lối ví, như: Chủ nghĩa đế quốc như “con đỉa hai vòi”, có đức mà không có tài thì chỉ như “ông bụt ngồi trên chùa” không giúp gì được ai. Có thể dùng thơ hoặc diễn ca nếu phù hợp, ví dụ: “Việt - Lào hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Thứ năm, viết thẳng thắn, có tính chiến đấu: Làm báo là tham gia vào cuộc đấu tranh tư tưởng bằng những thông tin chọn lọc, có căn cứ, phê bình những thói hư tật xấu trong sinh hoạt xã hội và xây dựng đạo đức mới. Việc này đòi hỏi người viết báo phải có bản lĩnh nghề nghiệp, dám bảo vệ cái đúng, không uốn cong ngòi bút. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về phong cách thẳng thắn, nêu cao tính chiến đấu với chủ nghĩa đế quốc và phê bình đồng chí của mình. Bác còn thể hiện tính thẳng thắn với chính mình, mỗi khi có việc làm chưa tốt, Bác nhận trách nhiệm tự phê bình đàng hoàng, do đó càng được tôn trọng, tin yêu.
Thứ sáu, khiêm tốn và nghiêm khắc với chính mình: Bác Hồ, ngay từ đầu đã là một tấm gương khiêm tốn khi được sửa những bài viết của mình. Lúc tập viết những tin bài đầu tiên trên các báo Pháp, Bác kể lại: “Đấy, tôi thử viết bài này, đăng được thì các đồng chí đăng cho, tôi không có tự ái đâu, nhờ các đồng chí sửa để tôi học thêm”. Và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, hoạt động báo chí của mình, do luôn nắm vững đối tượng và mục đích viết nên Người “viết gì cũng đưa cho một đồng chí xem lại, chữ nào khó hiểu thường các đồng chí bảo cho mình sửa”.
Thứ bảy, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng: Bác Hồ - với tư cách là một nhà báo cách mạng luôn đòi hỏi nhà báo cách mạng không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn phải có đạo đức tốt và trong sáng. Người nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.
Quãng thời gian dài sau đó, tôi vinh dự được gần gũi giúp việc ông làm báo ở tờ Việt Nam Hương Sắc, viết chính luận cho nhiều tờ báo lớn, làm sách và tham gia xây dựng dự thảo một số văn kiện...đã giúp chúng tôi nhận ra nhiều giá trị từ bài viết đầu tiên không được đăng.
Nhân kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam, người viết bài này xin thành kính tâm tưởng nhớ về cố nhà báo lão thành cách mạng Đỗ Phượng cùng những câu chuyện về những ngày đầu bước vào nghề báo được ông ân cần chỉ dạy.
Cố Nhà báo Đỗ Phượng sinh ngày 16/11/1930. 13 tuổi ông tham gia hoạt động cách mạng và đến với nghề báo. Đến cuối năm 1948, ở tuổi 18, ông Đỗ Phượng được cử làm chủ bút tạp chí “Tinh thần mới” của Đảng bộ Hải Dương. Đây là tờ báo địa phương được làm ngay trong vùng địch hậu. Ông vừa là chủ bút, vừa viết tin, bài, lên maket và theo dõi in. Cuộc đời làm báo chuyên nghiệp của Đỗ Phượng bắt đầu từ đây.
Năm 1950, ông Đỗ Phượng được cử làm ủy viên thường trực Ban Tuyên truyền Đảng bộ Liên khu 3 (gồm 11 tỉnh Đồng bằng sông Hồng). Đầu năm 1966, ông được điều về làm Bí thư Đảng ủy Thông tấn xã Việt Nam đồng thời là Phó Tổng biên tập. Sau đó ông trở thành Tổng giám đốc TTXVN từ năm 1990 cho đến ngày nghỉ hưu (năm 1996).
Từ năm (1997 - 2017) ông làm Tổng Biên tập Tạp chí Việt Nam Hương Sắc, làm sách về các vị lãnh đạo, viết chính luận cho nhiều tờ báo lớn, tham gia xây dựng dự thảo văn kiện của Đảng...