Tiếng Nam tiếng Bắc có gì khác nhau

Tất nhiên là có khác (với những mức độ nhất định). Nếu không thì người ta đặt ra các từ tiếng Nam, tiếng Bắc (cũng như tiếng Hà Nội, tiếng Sài Gòn, tiếng Nghệ…) làm gì?

tieng-nam-tieng-bac-1638284564.jpgẢnh internet

 

Nói cho đúng thuật ngữ, các nhà ngôn ngữ học gọi là phương ngữ Nam (Bộ) và phương ngữ Bắc (Bộ). Đó là 2 trong số 3 vùng phương ngữ chính (cùng phương ngữ Trung (Bộ)) của nước ta từ xưa. Nhưng bây giờ (năm 2021) sau 46 năm nước non liền một dải (từ 1975), có còn sự khác biệt lớn nào giữa 2 vùng phương ngữ này không?

Cũng phải nói rằng, phương ngữ là sản phẩm tất yếu của mọi cộng đồng ngôn ngữ trên thế giới. Với những cộng đồng ngôn ngữ lớn thì không nói làm gì, nhưng ngay trong phạm vi một công đồng nhỏ hẹp (có khi chỉ vài chục ngàn người) thì sự khác biệt về phương ngữ, thổ ngữ, biệt ngữ… không phải là không có. Điều này làm tăng thêm vẻ đa dạng và phong phú ngôn ngữ toàn dân. Trẻ em hay bất cứ một người nào khác, trước khi tiếp cận ngôn ngữ toàn dân phải am hiểu tiếng nói của địa phương mình. Từ nhà ra sân, từ sân ra ngõ, đó là con đường thụ đắc tiếng mẹ đẻ của mọi đứa trẻ nói chung. Thật không có gì buồn hơn (và chắc chắn là không có) là một ngôn ngữ lớn và đông người nói (như tiếng Việt ta chẳng hạn) lại xảy ra hiện tượng “triệu người nói giống nhau như một”.

Có nhiều nhóm từ “khác mà giống nhau” thú vị của 2 vùng phương ngữ này. Ấy là các nhóm từ ghép đẳng lập hai yếu tố mà mỗi vùng chọn một yếu tố (trước hoặc sau) để sử dụng, mà xét cho cùng thì ngữ nghĩa 2 thành tố đó lại giống hệt nhau.

Chẳng hạn, đây là tổ hợp song âm nhưng tiếng Nam chọn yếu tố thứ nhất còn tiếng Bắc chọn yếu tố thứ hai: dư thừa, dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, mai mối, hư hỏng, kêu gọi, hình ảnh, la mắng, bồng bế, hăm dọa, sợ hãi, …

Ví dụ, miền Nam nói “cắt ruột dư” thì miền Bắc nói “cắt ruột thừa”. Tương tự: áo quần dơ = áo quần bẩn; hôm nay nó đau = hôm nay nó ốm, bán lấy lời = bán lấy lãi; cái đài hư = cái đài hỏng; kêu má về ăn cơm = gọi mẹ về ăn cơm; coi hình = xem ảnh; làm mai = làm mối; v.v.

Còn đây là những tổ hợp ngược lại, người miền Bắc chọn yếu tố đầu, “nhường” người miền Nam chọn yếu tố sau: đón rước, lừa gạt, chậm trễ, tìm kiếm, mau lẹ, chăn mền, đùa giỡn, thuê mướn, hung dữ, trêu chọc, thóc lúa, giẫm đạp, vâng dạ, sắc bén, lau chùi, thứ hạng,...

Ví dụ, miền Bắc nói “đón khách” thì miền Nam nói “rước khách”. Tương tự: bị lừa = bị gạt; đến chậm = đến trễ; tìm vợ = kiếm vợ; mau lên = lẹ lên; đắp chăn = đắp mền; thích đùa = thích giỡn, làm thuê = làm mướn; trêu em = chọc em; v.v.

Đấy là dùng tách riêng, còn khi dùng cả tổ hợp thì hai miền lại thống nhất dùng gần như nhau: hàng hóa “dư thừa”, con người “hư hỏng”, quần áo “dơ bẩn”, quanh năm “đau ốm”, “hình ảnh” nhạt nhòa,… chuẩn bị “đón rước”, nó bị “lừa gạt”, rất hay “chậm trễ”, công cuộc “tìm kiếm”,…

Và có những từ, người vùng này chỉ dùng từ vùng kia (chứ không dùng của mình), như tiếng Bắc vẫn nói “mượn đầu heo nấu cháo”, “bún bò giò heo”… Người miền Nam nói “bánh da lợn”, “nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc” (mà không nói "Nghe theo tiếng kêu thiêng liêng của Tổ quốc")…

Trong bối cảnh giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa và thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, nhiều từ đầu tiên vốn là “đặc sản” của một vùng miền, bây giờ đã hòa nhập thành "tài sản" của chung ngôn ngữ toàn dân. Trong xu hướng này, các từ của tiếng Nam Bộ nhập vào tiếng Việt chung là biểu hiện rõ nhất: bột giặt, kem giặt (thay cho xà phòng bột, xà phòng kem), gạch bông, bông tai (gạch hoa, hoa tai), máy lạnh (điều hòa nhiệt độ), tiêu chảy (ỉa chảy, ỉa lỏng), bà bầu (bà chửa), chỉ, cây (vàng) (đồng cân, lạng (vàng)), quậy (phá), nhậu nhẹt (ăn uống, bia rượu), lì xì (mừng tuổi), nước tương (xì dầu), nhà thuốc/ nhà sách (cửa hàng thuốc/ cửa hàng sách), v.v.

Tiếng Nam Bộ, tiếng Bắc Bộ, tiếng Trung Bộ có nhiều điểm khác và còn tiếp tục khác. Nhưng ranh giới của chúng đang được kéo gần lại với đường đồng ngữ của chủ thể tiếng Việt. Đó là những hiện tượng bình thường và là nhân tố tích cực của sự phát triển. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố khác (ngữ âm và nhiều từ riêng biệt) thì chúng vẫn được giữ gìn, bảo lưu từ đời này sang đời khác. Đó là tính bền vững, làm nên một nét riêng, nét đẹp của tiếng Việt chúng ta.